Phân tích kết quả thi hành phần dân sự trong bản án hình sự (theo thống kê của Tổng cục THADS) có thể thấy, các việc THADS trong bản án, quyết định hình sự chiếm số lượng lớn cả về việc và về tiền, tuy nhiên, kết quả thi hành đạt được là chưa cao, đặc biệt là kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản[1]. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan như: Số lượng các việc THADS trong bản án, quyết định hình sự phát sinh ngày càng nhiều, có chiều hướng tăng theo từng năm (năm 2016 tổng thụ lý: 225.465 việc, số tiền 31.744 tỷ 449 triệu 845 nghìn đồng; năm 2017 tổng thụ lý: 299.314 việc, số tiền 44.192 tỷ 933 triệu 732 nghìn đồng)[2]. Do đó, trách nhiệm của các cơ quan THADS ngày càng trở nên nặng nề hơn, sức ép công việc cùng với tính chất phức tạp của các vụ việc thi hành án gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác cũng như việc hoàn thành chỉ tiêu của các cơ quan THADS. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế[3]…
Thực tiễn công tác thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự đang đặt ra rất nhiều thách thức, đòi hỏi phải có những giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự nói riêng và hiệu quả công tác THADS nói chung. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, cần nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với cơ quan công an trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Điều 68 Luật Thi hành án dân sự quy định về yêu cầu lực lượng hỗ trợ chấp hành viên để tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự: “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ”. Theo đó, trong trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự chống đối, chấp hành viên có quyền yêu cầu lực lượng công an hoặc các tổ chức, cá nhân hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc này vẫn gặp phải vướng mắc khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục cũng như trách nhiệm của lực lượng công an trong quá trình tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, dẫn đến một số trường hợp cơ quan THADS bị lực lượng công an từ chối hỗ trợ[4]. Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS chỉ quy định về phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS, còn việc hỗ trợ chấp hành viên tạm giữ tài sản do chưa có văn bản quy định nên không cử lực lượng tham gia. Do đó, cần quan tâm đến vấn đề phối hợp giữa cơ quan THADS và cơ quan công an không chỉ trong việc cưỡng chế thi hành án mà cả trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Hai là, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa cơ quan THADS với trại giam, trại tạm giam. Mặc dù Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả tiền, giấy tờ cho người được THADS là phạm nhân đã có những quy định về việc phối hợp giữa cơ quan THADS và cơ quan thi hành án hình sự trong thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả tiền, giấy tờ cho người được THADS là phạm nhân[5], tuy nhiên, trên thực tế, việc phối kết hợp vẫn còn một số bất cập nhất định, đặc biệt là việc thông tin của trại giam, cơ sở giam giữ về nơi chấp hành hình phạt tù của người phải thi hành án là phạm nhân cho cơ quan THADS đôi lúc còn chưa kịp thời, chưa đồng bộ[6].
Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC chỉ quy định trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ có giá hoặc giấy tờ khác của phạm nhân là người phải THADS hoặc thân nhân của họ tự nguyện nộp tại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện để THADS; trả tiền, giấy tờ cho phạm nhân là người được THADS tại trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện; trách nhiệm của trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện, cơ quan THADS trong việc thi hành phần quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự[7]. Trong khi đó, số lượng việc thi hành án phải trả lại các tài sản khác cho phạm nhân là rất lớn. Do đó, cần xem xét bổ sung các quy định về việc phối hợp giữa trại giam, trại tạm giam với cơ quan THADS trong việc trả lại đối với những tài sản khác để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật[8].
Ba là, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các giai đoạn bắt đầu tố tụng đến giai đoạn THADS trong cơ chế bảo đảm thi hành án. Theo quy định tại Điều 122 Luật Thi hành án dân sự thì vật chứng, tài sản tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự do yêu cầu phục vụ việc xét xử mà chưa được chuyển cho cơ quan THADS trong giai đoạn truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì phải chuyển giao cho cơ quan THADS tại thời điểm Tòa án chuyển giao bản án, quyết định. Theo quy định trên, việc chuyển giao vật chứng, tài sản tạm giữ trong bản án, quyết định hình sự có thể thực hiện cùng thời điểm với thời điểm chuyển giao bản án, quyết định. Trong thực tiễn một số vụ việc, công tác phối hợp giữa cơ quan tố tụng với cơ quan THADS còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu; việc đính chính, giải thích bản án, chuyển giao vật chứng, các tài liệu liên quan có trường hợp còn chưa kịp thời; việc áp dụng các biện pháp chế tài đối với các trường hợp cố ý không thi hành án hoặc chống đối, tẩu tán tài sản, cản trở thi hành án còn chưa nghiêm[9]. THADS là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng nên cơ quan THADS cần phải nắm được các thông tin cần thiết và sớm nhất có thể về tài sản, giấy tờ của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự để có cơ sở bảo đảm tổ chức thi hành hiệu quả phần tiền và tài sản có liên quan trong các bản án, quyết định hình sự. Do đó, vai trò chủ động của cơ quan THADS cần phải được phát huy nhiều hơn nữa trong việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, vật chứng, tài sản tạm giữ có liên quan đến vụ án từ cơ quan điều tra trong giai đoạn tố tụng.
Theo quy định tại Điều 127 Luật Thi hành án dân sự, chấp hành viên xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 98, Điều 99, Điều 100 và Điều 101 Luật Thi hành án dân sự đối với các tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Tuy nhiên, thực tiễn xử lý tài sản kê biên phát sinh rất nhiều vấn đề như: Diện tích tài sản thực tế với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị chênh lệch, hiện trạng tài sản bị thay đổi sau khi có quyết định kê biên… cũng gây nhiều khó khăn cho giai đoạn thi hành án sau này. Do vậy, việc kê biên trong giai đoạn trước khi xét xử cũng nên bổ sung thành phần tham gia là cơ quan THADS để cơ quan THADS có những thuận lợi hơn trong quá trình xử lý tài sản kê biên trong giai đoạn thi hành án. Đồng thời, đối với các việc dân sự trong vụ án hình sự như bồi thường thiệt hại, tịch thu tài sản, truy thu do thu lợi bất chính…, pháp luật cần quy định rõ trong khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng như công an, Tòa án phải có trách nhiệm ước tính tất cả nghĩa vụ dân sự mà bị can, bị cáo sẽ phải thi hành, đồng thời phải triệt để thực hiện việc kê biên, tạm giữ tài sản của họ để bảo đảm cho việc thi hành án sau này[10].
Bốn là, cần tăng cường công tác quản lý nhân khẩu sau khi người phải thi hành án chấp hành xong hình phạt tù. Trên thực tế, sau khi mãn hạn tù, rất nhiều trường hợp người phải thi hành án bỏ đi lang thang, không xác định được địa chỉ, nơi cư trú[11]. Đây cũng là một trong số các nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng án tồn đọng hiện nay. Luật Cư trú năm 2006 không có quy định riêng vấn đề quản lý nhà nước đối với người phải thi hành án; đồng thời chưa có quy định rõ biện pháp xử lý đối với trường hợp người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ thông báo với cơ quan thi hành án khi có thay đổi địa chỉ, nơi cư trú. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Cư trú năm 2006 quy định về quản lý nơi cư trú đối với người phải thi hành án khi chuyển đi nơi khác, theo đó, cần bổ sung, làm rõ nơi cư trú mới của đối tượng phải thi hành án về hình sự cũng như dân sự, khắc phục tình trạng cả cơ quan công an và chính quyền cơ sở không nắm được nơi cư trú mới của họ. Có thể xem xét quy định về việc đăng tải danh sách những đối tượng này lên cổng thông tin điện tử của cơ quan công an để thuận lợi cho việc tra cứu thông tin khi cần thiết. Đối với những trường hợp công dân chuyển về nơi ở mới thì công an cấp xã lập danh sách và gửi thông tin về nơi ở cũ của người mới chuyển đến. Một bản án cần có nhiều địa chỉ, trong trường hợp cơ quan thi hành án không xác minh được địa chỉ theo bản án thì phải có địa chỉ khác theo hộ khẩu hoặc địa chỉ nơi tạm trú hoặc người thân thích của họ để thuận tiện cho việc điều tra xác minh. Nên quy định trách nhiệm quản lý các đối tượng đang chấp hành án cho công an tại cấp xã; trách nhiệm cung cấp thông tin nơi cư trú của người phải thi hành án cho công an cấp xã. Một mặt phù hợp với pháp luật cư trú, mặt khác tăng cường và nâng cao khả năng thi hành các bản án hình sự có phần dân sự và các loại án khác[12].
Có thể nói, tính thống nhất, hiệu lực và hiệu quả của pháp luật THADS trong hệ thống pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và tương tác biện chứng với hiệu quả của công tác THADS trên thực tế. Công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành[13]. Do đó, việc nâng cao hiệu quả thi hành án đối với phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự nói riêng và nâng cao chất lượng công tác THADS nói chung có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội
[1]. Bảo Thắng, Tội phạm tham nhũng: Phá hoại “con voi”, thu hồi “con kiến”, https://laodong.vn/phap-luat/toi-pham-tham-nhung-pha-hoai-con-voi-thu-hoi-con-kien-685663.bld, truy cập ngày 12/9/2017.
[2]. Tổng cục THADS, “Một số giải pháp nhằm giải quyết khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự”, Tài liệu Hội thảo về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn được tổ chức tại Hải Phòng ngày 26/01/2018.
[3]. Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Quang Minh, Một số nguyên nhân ảnh hưởng hiệu quả thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2280, đăng ngày 28/02/2018, truy cập ngày 05/9/2018.
[4]. Tổng cục THADS, “Một số giải pháp nhằm giải quyết khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự”, Tài liệu Hội thảo về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn được tổ chức tại Hải Phòng ngày 26/01/2018.
[5]. Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC quy định, giám thị trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan THADS nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm họ, tên, địa chỉ của phạm nhân là người phải THADS hoặc phạm nhân là người được THADS theo bản án hình sự, trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tiếp nhận phạm nhân vào trại giam.
[6]. Nguyễn Tuấn, Công tác phối hợp giữa cơ quan THADS và cơ quan công an trong THADS - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả, http://thads.moj.gov.vn/tuyenquang/noidung/tintuc/lists/thongtinkhac/ view_detail.aspx?itemid=67, truy cập ngày 04/8/2018.
[7]. Điều 1 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC.
[8]. Xem thêm: ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Về trả lại tiền, tài sản, giấy tờ cho người được thi hành án là phạm nhân, http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=857, đăng ngày 22/02/2018, truy cập ngày 05/9/2018.
[9]. Vụ Nghiệp vụ 2, Tổng cục THADS, Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả thi hành án các vụ việc liên quan đến án tham nhũng, kinh tế, http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/view_detail.aspx? itemid=822, đăng ngày 08/5/2017, truy cập ngày 04/8/2018.
[10]. Đặng Đình Quyền, Biện pháp bảo đảm cho bản án, quyết định về dân sự của Tòa án có tính khả thi,
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=13, truy cập ngày 22/7/2018.
[11]. Trần Đại Sỹ, Hoãn thi hành án do đương sự bỏ địa chỉ, http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/ tuthuctien/view_detail.aspx?itemid=293, đăng ngày 07/9/2015.
[12]. Xem Trần Đại Sỹ, Hoãn thi hành án do đương sự bỏ địa chỉ,
http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/tuthuctien/view_detail.aspx?itemid=293, đăng ngày 07/9/2015.
[13]. Nguyễn Văn Nghĩa, “Công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được thi hành”, http://baophapluat.vn/tu-phap/cong-ly-chi-co-y-nghia-khi-va-chi-khi-quyet-dinh-cua-toa-an-duoc-thi-hanh-348236.html, đăng ngày 07/8/2017.