1. Tình trạng khẩn cấp trong lịch sử lập pháp và khoa học pháp lý thế giới
Trong khoa học pháp lý toàn thế giới, tình trạng khẩn cấp đã có một lịch sử lâu dài. Những tư liệu cổ về pháp luật của đế quốc La Mã đã ghi nhận về khái niệm justitium - xuất phát từ từ nguyên Latin juris statio[1]. Đây là một hình thức sơ khai của tình trạng khẩn cấp, khi các thiết chế dân sự như Tòa án, kho bạc và nghị viện bị đình chỉ hoạt động theo lệnh của các cơ quan quản lý nhà nước. Trạng thái justitium thường được ban bố khi một quan chấp chính tối cao của đế chế qua đời, hoặc khi có tin tức về một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại nhà nước La Mã.
Theo các thông lệ quốc tế, tình trạng khẩn cấp (state of emergency) là một tình huống cho phép chính quyền có thể ban hành những chính sách hoặc thực hiện những hành động mà thông thường không được phép thực hiện, nhân danh lợi ích công cộng. Lý do ban bố tình trạng khẩn cấp là các thảm họa lớn do nhân tố tự nhiên hoặc nhân tạo gây ra, như chiến tranh, xung đột, thiên tai, động đất, cháy rừng, tràn dầu, dịch bệnh… Do hoàn cảnh khó khăn và tính chất khẩn cấp của thảm họa, nên chính quyền cần phải ban hành những chính sách đặc thù để huy động những nguồn lực xã hội để kịp thời ứng phó và khắc phục hậu quả của thảm họa. Những chính sách được chính quyền ban hành trong tình trạng khẩn cấp có thể hạn chế một phần hay toàn bộ một số quyền tự do của người dân, cũng như kích hoạt những cơ chế phản ứng khẩn cấp để đối phó với thảm họa.
Ngày nay, tình trạng khẩn cấp được thừa nhận rộng rãi cả trong khoa học pháp lý trên toàn thế giới, cũng như trong các văn kiện chính trị - pháp lý toàn cầu. Điển hình là Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) năm 1966 mà Việt Nam là thành viên có quy định: Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước này, trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
Theo ICCPR 1966, trong thời gian tình trạng khẩn cấp, các quốc gia thành viên Công ước có quyền áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền dân sự và chính trị được quy định trong Công ước. Tuy nhiên, các biện pháp này phải chịu những giới hạn sau đây:
Thứ nhất, chỉ được áp dụng các biện pháp hạn chế quyền trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình;
Thứ hai, các biện pháp hạn chế quyền trong tình trạng khẩn cấp không được trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia, được quy định trong pháp luật quốc tế;
Thứ ba, các biện pháp hạn chế quyền trong tình trạng khẩn cấp không được quy định bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội;
Thứ tư, ngay cả trong tình trạng khẩn cấp, cũng không thể hạn chế một số quyền được qui định bởi ICCPR 1966, như quyền sống (Điều 6), quyền không bị tra tấn, đối xử và trừng phạt tàn ác (Điều 7), quyền không bị bắt làm nô lệ hoặc bắt nô dịch (Điều 8)…
2. Tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh trong quy định của pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, các quy định sơ bộ về tình trạng khẩn cấp (nói chung) đã xuất hiện từ Hiến pháp năm 1992. Riêng về vấn đề tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh, hiện nay, ở nước ta có khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định, như: Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000, Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007…
Về mặt thẩm quyền, căn cứ văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013, có hai chủ thể có thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp nói chung (bao gồm tình trạng khẩn cấp về dịch nói riêng): Đó là Ủy ban thường vụ Quốc hội (cơ quan thường trực của cơ quan đại biểu dân cử, mang quyền lực nhà nước tối cao) và Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể trực tiếp quyết định ban bố và bãi bỏ tình trạng khẩn cấp[2]; hoặc ban hành nghị quyết để Chủ tịch nước ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Khi Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, thì Chủ tịch nước trực tiếp ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp[3]. Như vậy, “quyền ưu tiên” ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước chỉ tiến hành việc này theo ủy quyền bằng nghị quyết, hoặc khi không thể triệu tập họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Về căn cứ ban bố hoặc bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh, căn cứ Điều 42 Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007, việc ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh diễn ra khi dịch bệnh lây lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế - xã hội của đất nước. Việc ban bố hay bãi bỏ tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh phải công khai, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước ban bố hoặc bãi bỏ tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Nội dung ban bố tình trạng khẩn cấp khi có dịch (theo Điều 43 Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm) bao gồm các nội dung: (i) Lý do ban bố tình trạng khẩn cấp; (ii) Địa bàn trong tình trạng khẩn cấp; (iii) Ngày, giờ bắt đầu tình trạng khẩn cấp; và (iv) Thẩm quyền tổ chức thi hành nghị quyết hoặc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.
Để đảm bảo thông tin kịp thời về tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh đến toàn bộ nhân dân cả nước, Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm dành Điều 45 để quy định về đưa tin trong tình trạng khẩn cấp về dịch. Theo đó, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân có trách nhiệm đăng ngay toàn văn nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ tổ chức thi hành nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch; đưa tin kịp thời về các biện pháp đã được áp dụng tại địa bàn có tình trạng khẩn cấp và tình hình khắc phục hậu quả dịch; đăng toàn văn nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch.
Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố hoặc bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch cũng được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan, tổ chức và nơi công cộng.
Các phương tiện thông tin đại chúng khác ở trung ương và địa phương có trách nhiệm đưa tin về việc ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch và quá trình khắc phục hậu quả dịch.
3. Sự chồng chéo trong quy định pháp luật về tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh
Trong vấn đề tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh, ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra tình trạng “song trùng điều chỉnh” - khi tồn tại hai hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề:
Hệ thống thứ nhất là Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000, được hướng dẫn bởi Nghị định số 71/2002/NĐ-CP ngày 23/07/2002 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp trong trường hợp có thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm.
Hệ thống thứ hai là Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007, được hướng dẫn bởi Nghị định số 101/2010/NĐ-CP ngày 30/09/2010 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về áp dụng biện pháp cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế và chống dịch đặc thù trong thời gian có dịch.
Do những khoảng cách về thời gian, cũng như những vấn đề về kỹ thuật lập pháp khác, mà giữa hai hệ thống văn bản này tồn tại những sự chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau trong quy định về cùng một vấn đề:
Về sử dụng khái niệm, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 và Nghị định số 71/2002/NĐ-CP sử dụng các khái niệm “biện pháp đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh nguy hiểm”, “đội công tác chống dịch khẩn cấp”, “đội cấp cứu lưu động”; trong khi Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2000 và Nghị định số 101/2010/NĐ-CP lại sử dụng các khái niệm “các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về dịch”, “đội chống dịch cơ động”. Nhiều khái niệm trong các văn bản trên đây không được giải thích rõ ràng.
Về nội hàm quy định, cũng có rất nhiều điểm mâu thuẫn trong quy định về các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp về dịch giữa hai hệ thống văn bản nói trên. Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định một số biện pháp như: (i) Tổ chức cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 48); (ii) Tổ chức cách ly y tế (Điều 49); (iii) Hạn chế ra vào vùng có dịch (điểm a khoản 1 Điều 53)… là những biện pháp chống dịch thông thường (được phép áp dụng khi có dịch, mà không cần phải ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch). Trong khi đó, căn cứ theo các điều 21, 22, và 24 Nghị định số 71/2002/NĐ-CP, thì đây lại là các “biện pháp đặc biệt” được áp dụng trong “tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh nguy hiểm”.
Thậm chí, Nghị định số 71/2002/NĐ-CP chỉ cho phép “tạm thời đình chỉ hoạt động của các cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng không đủ điều kiện bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm” (khoản 5 Điều 25); trong khi đó, Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 cho phép “tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại vùng có dịch” (điểm a khoản 1 Điều 52) mà không cần chứng minh về việc cơ sở đó không đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm (chỉ cần có căn cứ khoa học về nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh).
Những sự chồng chéo trong quy định trên đây gây khó khăn rất lớn cho việc hiểu và áp dụng các quy định này trên thực tế. Đây là tình huống điển hình cho việc các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề. Để giải quyết vấn đề này, cần lựa chọn một trong hai hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kể trên để ưu tiên áp dụng. Căn cứ theo Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, có thể thấy: Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 là văn bản luật, có hiệu lực pháp lý cao hơn so với Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000. Nghị định số 101/2010/NĐ-CP được ban hành sau Nghị định số 71/2002/NĐ-CP về mặt thời gian. Vì vậy, cần phải ưu tiên áp dụng Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 và Nghị định số 101/2010/NĐ-CP trong việc thực hiện các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp về dịch. Điều này cũng rất hợp lý, vì Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm là văn bản pháp lý có tính chất chuyên ngành, điều chỉnh trực tiếp vấn đề tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh.
Chưa kể đến việc, căn cứ theo Điều 70 (khoản 13) và Điều 74 (khoản 10) Hiến pháp năm 2013, thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quy định về tình trạng khẩn cấp, Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ có thẩm quyền ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Điều này đặt ra dấu hỏi lớn về hiệu lực pháp lý của Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 (được ban hành bởi Ủy ban thường vụ Quốc hội).
4. Những tồn tại trong quy định của Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 về tình trạng khẩn cấp do dịch, bệnh
Những chồng chéo, mâu thuẫn về pháp lý về tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh không chỉ xuất hiện giữa hai hệ thống văn bản, mà ngay cả trong phạm vi các quy định của Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 cũng có những vướng mắc gây khó khăn trong áp dụng trên thực tế.
Về tổng thể, hệ thống các biện pháp chống dịch được quy định tại Mục 3, Chương 4 (từ Điều 46 đến Điều 56) của Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm được chia làm hai cấp độ: (i) Biện pháp chống dịch thông thường; (ii) Biện pháp chống dịch trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh. Căn cứ theo Điều 54 Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007, thì khi tình trạng khẩn cấp về dịch được ban bố, thì ngoài các biện pháp chống dịch thông thường, Ban chỉ đạo chống dịch quốc gia có thể áp dụng thêm một số biện pháp chống dịch đặc biệt khác.
Khi đối chiếu hai cấp độ của các biện pháp chống dịch, có thể thấy sự không rõ ràng, có dấu hiệu trùng lặp giữa một số biện pháp chống dịch thông thường.
Ví dụ 1: Tại điểm a khoản 1 Điều 53 Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm đã có quy định về các biện pháp kiểm soát ra, vào vùng có dịch đối với bệnh dịch thuộc nhóm A (như dịch Covid-19), như: (i) Hạn chế ra, vào vùng có dịch đối với người và phương tiện; trường hợp cần thiết phải kiểm tra, giám sát và xử lý y tế; (ii) Cấm đưa ra khỏi vùng có dịch những vật phẩm, động vật, thực vật, thực phẩm và hàng hóa khác có khả năng lây truyền bệnh dịch… Trong khi đó, Điều 54 lại có quy định về các biện pháp chống dịch trong tình trạng khẩn cấp như: (i) Đặt biển báo hiệu, trạm gác và hướng dẫn việc đi lại tránh vùng có dịch; (ii) Yêu cầu kiểm tra và xử lý y tế đối với phương tiện vận tải trước khi ra khỏi vùng có dịch; (iii) Cấm người, phương tiện không có nhiệm vụ vào ổ dịch. Về mặt bản chất, các quy định này đều đề cập đến việc hạn chế di chuyển của người và phương tiện giao thông ra vào vùng có dịch, mà không có sự khác biệt trên thực tế.
Ví dụ 2: Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2007 có quy định về biện pháp tiêu hủy động vật, thực phẩm và các vật khác là trung gian truyền bệnh (trong vùng có dịch). Biện pháp này gần như tương tự với biện pháp “tiêu hủy động vật, thực phẩm và các vật khác có nguy cơ làm lây lan bệnh dịch sang người” tại điểm g khoản 2 Điều 54 của Luật này. Khi dịch bệnh lan rộng trên quy mô cả nước, thì hai biện pháp này có hiệu quả thực tế tương đương với nhau.
Ví dụ 3: Giữa hai biện pháp “hạn chế tập trung đông người” (điểm c khoản 1 Điều 52) và “cấm tập trung đông người” (điểm d khoản 2 Điều 54) không có sự khác biệt lớn về mặt nội hàm. Trên lý thuyết về ngôn ngữ, thì “hạn chế” có thể là cấp độ thấp hơn của “cấm”; nhưng trên thực tế, Điều 17 Nghị định số 101/2010/NĐ-CP hướng dẫn về “hạn chế tập trung đông người” không làm rõ được sự khác biệt về mặt mức độ giữa hai khái niệm kể trên. Nói cách khác, hai biện pháp này là tương đương với nhau về hiệu quả thực tế.
Qua thực tiễn chống dịch Covid-19 tại Việt Nam, có thể thấy rằng sự chồng chéo và bất hợp lý trong các quy định về các biện pháp chống dịch đã dẫn đến thực tế đáng lo ngại: Mặc dù trong giai đoạn tháng 04/2020, Việt Nam chỉ đang trong giai đoạn “tiền khẩn cấp” (lời Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc họp Thường trực Chính phủ chiều ngày 31/03/2020); nhưng trên thực tế Việt Nam đã phải áp dụng nhiều biện pháp chống dịch có nội hàm “tình trạng khẩn cấp”. Điều này khiến cho Nhà nước không còn đủ dư địa chính sách cho một tình huống tình trạng khẩn cấp về dịch có thể xảy ra. Điều này làm mất đi ý nghĩa của quy định về tình trạng khẩn cấp trên thực tế - là trạng thái pháp lý cho phép Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc thù để huy động các nguồn lực xã hội và kích hoạt các cơ chế khẩn cấp để chống dịch.
5. Những định hướng và giải pháp hoàn thiện mô hình chính sách cho tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh
Nguyên nhân của những sự chồng chéo pháp lý kể trên là do những hạn chế về kỹ thuật lập pháp, cũng như do thiếu những tiêu chí xác định nội hàm và bản chất của khái niệm tình trạng khẩn cấp nói chung, tình trạng khẩn cấp về dịch nói riêng.
Về lý thuyết, tình trạng khẩn cấp là một tình huống được công bố bởi cơ quan có thẩm quyền, khi mà thảm họa vượt quá khả năng ứng phó thông thường của chính quyền, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến đời sống con người và các hoạt động kinh tế - xã hội. Tình huống đó đòi hỏi chính quyền phải kích hoạt những cơ chế ứng phó khẩn cấp, cũng như áp dụng những biện pháp ứng phó theo hướng hạn chế một số quyền tự do của người dân, huy động theo hình thức trưng mua, trưng dụng những nguồn lực xã hội để kịp thời ứng phó và khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh.
Để hoàn thiện chính sách pháp luật của Việt Nam về tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh, cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần thống nhất các quy định của pháp luật, thống nhất việc sử dụng các thuật ngữ, khái niệm, để tránh chồng chéo, vướng mắc trong áp dụng trên thực tế. Tác giả đề xuất lấy Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm làm căn cứ để thống nhất áp dụng, nhưng cần phải tiến hành một số sửa đổi cần thiết.
Thứ hai, cần hoàn thiện và hệ thống hóa các biện pháp chống dịch của Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm. Mô hình mà Luật Phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm hiện nay đang lựa chọn phân chia các biện pháp chống dịch thành hai mức độ, đó là các biện pháp chống dịch thông thường và các biện pháp chống dịch đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh. Mô hình này đúng về cấu trúc, nhưng cần hoàn thiện hơn về chi tiết, bằng cách hệ thống hóa và phân loại các biện pháp chống dịch theo hai tiêu chí:
(i) Tiêu chí tính chất: Một số biện pháp chống dịch chỉ được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp như trưng mua, trưng dụng tài sản có bồi thường, trưng dụng đất. Các biện pháp này hạn chế ở mức độ cao các quyền con người, quyền công dân cơ bản, nên chỉ có thể được áp dụng trong những tình huống cấp bách, ngặt nghèo nhất và cũng đòi hỏi những thủ tục pháp lý cao hơn các biện pháp chống dịch thông thường.
(ii) Tiêu chí mức độ: Một số biện pháp chống dịch chỉ được áp dụng trên quy mô lớn, phạm vi rộng, thời gian dài khi tình trạng khẩn cấp đã được ban bố. Nói cách khác, một biện pháp chống dịch có thể được mở rộng phạm vi áp dụng về đối tượng, không gian và thời gian, khi có tình trạng khẩn cấp.
Ví dụ: Chỉ được thực hiện cách ly, phong tỏa, vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế trên phạm vi trên quy mô toàn bộ quận, huyện trong tình trạng khẩn cấp. Còn trong tình huống có dịch thông thường, chỉ có thể thực hiện các biện pháp nói trên ở quy mô xã, phường, thị trấn. Hoặc trong tình huống dịch bệnh thông thường, có thể áp dụng các biện pháp hạn chế một phần hoạt động đi lại trong thời gian tối đa 15 ngày (không gia hạn); còn trong tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh, có thể cấm hoàn toàn việc đi lại, đình chỉ hoạt động các cơ sở sản xuất kinh doanh (trừ những trường hợp khẩn cấp) trong tối đa 30 ngày (và có thể gia hạn).
Trên cơ sở phân loại theo những tiêu chí nêu trên, có thể hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động chống dịch, hình thành hệ thống các biện pháp chống dịch hoàn chỉnh, có độ rộng và chiều sâu; có dư địa chính sách cho các biện pháp chống dịch thông thường và các biện pháp chống dịch đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp về dịch.
Thứ ba, trong xây dựng pháp luật về tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh, cần nhận thức rõ ràng đây không chỉ đơn thuần là một sự kiện pháp lý, mà còn gây ra những ảnh hưởng về chính trị và truyền thông trong dư luận nhân dân. Ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch có thể dẫn đến những phản ứng tiêu cực của người dân, như “tháo chạy” khỏi vùng dịch, mua gom, đầu cơ, tích tữ hàng hóa… Đây cũng là một yếu tố cần cân nhắc trong xây dựng pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh công tác đưa tin của các cơ quan thông tin đại chúng, rất cần có cơ chế và quy định pháp luật để huy động sự vào cuộc toàn diện của hệ thống chính trị ở tất cả các cấp, nhằm phổ biến, giáo dục, tuyên truyền, vận động nhân dân nghiêm túc chấp hành chính sách tình trạng khẩn cấp của Nhà nước, lạc quan, tin tưởng, không hoảng loạn trong dịch bệnh.
Trường Đại học Luật Hà Nội