1. Vai trò của vi bằng trong quá trình xét xử, thi hành án dân sự và trong đời sống xã hội
Vi bằng (công chứng thư) được quan niệm là một “sản phẩm độc quyền của riêng Thừa phát lại”[1]. Bởi lẽ, căn cứ quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, chỉ Thừa phát lại - chủ thể duy nhất mới có quyền hạn tiến hành lập vi bằng. Vi bằng do Thừa phát lại lập phản ánh rất nhiều sự kiện pháp lý khác nhau xảy ra trong đời sống và nội dung của nó rất đa dạng, phong phú. Về bản chất, vi bằng là một loại văn bản pháp lý do Thừa phát lại lập dùng để ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Hoặc nói cách khác, “vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật”[2].
Vi bằng có giá trị pháp lý không chỉ trong các giao dịch dân sự mà còn là nguồn chứng cứ rất quan trọng dùng trong quá trình xét xử giải quyết các tranh chấp. Bởi đối với giai đoạn tố tụng dân sự, chứng cứ được xác định giữ vai trò tối quan trọng và là cơ sở, là căn cứ để Tòa án quyết định vụ án[3]. Cũng từ đó, Tòa án mới có thể xác định hậu quả pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Trong xét xử giải quyết các tranh chấp, giá trị pháp lý của vi bằng thể hiện: “Vi bằng do Thừa phát lại lập là các công chứng thư, là nguồn chứng cứ quan trọng, đáng tin cậy để Tòa án sử dụng là căn cứ trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự”[4]. Từ đó, có thể khẳng định, vi bằng của Thừa phát lại “là nguồn chứng cứ quan trọng và rất phong phú bổ sung cho nguồn chứng cứ hiện hành, phục vụ không những cho công tác xét xử của Tòa án, mà còn phục vụ đắc lực cho cơ quan công quyền ngay từ giai đoạn điều tra”[5].
Vi bằng còn có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động thi hành án dân sự. Căn cứ Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), khi phát hiện hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì đương sự có quyền yêu cầu bằng văn bản để Chấp hành viên áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự[6]. Tuy nhiên, để nâng cao trách nhiệm và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án thì người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của họ. Vì vậy, để đảm bảo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm có căn cứ và hợp pháp thì trước đó người yêu cầu có thể yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng đối với các hành vi nêu trên. Hay trong quá trình thi hành án dân sự nếu như các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án như chuyển giao tiền, tài sản thì họ cũng có thể yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện này. Sau này, nếu có vấn đề phát sinh liên quan đến quá trình thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án có thể căn cứ các vi bằng đã được lập để làm cơ sở giải quyết. Vì thế, vi bằng của Thừa phát lại đã góp phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, đối với hoạt động thi hành án dân sự, vi bằng còn có thể được sử dụng để ghi nhận việc các bên đương sự thi hành nghĩa vụ, xác nhận việc từ chối thực hiện công việc của cá nhân, tổ chức hay xác nhận tình trạng tài sản là đối tượng thi hành án...
Đối với xã hội, vi bằng của Thừa phát lại cung cấp cho người dân một hình thức dịch vụ pháp lý mới để người dân có thêm cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Với sự xuất hiện của vi bằng, người dân có thêm lựa chọn trong việc xác nhận các sự kiện pháp lý xảy ra trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày. Vi bằng có thể được sử dụng để ghi nhận ngay cả các sự kiện pháp lý đang diễn ra và trước khi được pháp luật xem xét, giải quyết. Đây là một thuận lợi rất lớn của vi bằng so với các dịch vụ pháp lý công khác. Vì khi chủ thể có thẩm quyền giải quyết các vụ việc đó thì rất có thể các tình tiết, sự kiện, môi trường tồn tại... của vụ việc đó đã bị các bên cố tình thay đổi. Thừa phát lại với quyền hạn đặc biệt lập vi bằng mà không chủ thể nào có được trong nhiều trường hợp đã nhanh chóng tiếp cận hiện trường và lưu lại những chứng cứ quan trọng để từ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở xem xét, giải quyết. Chính vì thế, vi bằng của Thừa phát lại đáp ứng rất tốt nhu cầu của đông đảo tầng lớp nhân dân vì rất gần gũi với các hoạt động vật chất và giao dịch dân sự của họ. Thừa phát lại được hưởng phí dịch vụ từ khách hàng, nên đòi hỏi sẽ chuyên tâm và luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Từ đó, quyền và lợi ích của khách hàng luôn được nhanh chóng bảo đảm.
Tóm lại, xã hội hóa thi hành án dân sự trong đó cho phép Thừa phát lại có quyền lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi trong các giao dịch và đời sống hàng ngày đã đóng góp rất lớn vào tiến trình cải cách tư pháp nói chung và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng. Vi bằng của Thừa phát lại đã cung cấp những chứng cứ quan trọng cho quá trình xét xử giải quyết các tranh chấp. Bởi với vai trò là một nguồn chứng cứ trong xét xử, vi bằng của Thừa phát lại đã góp phần giảm tải áp lực công việc và trách nhiệm cho các hoạt động điều tra, thu thập, xác minh chứng cứ của Tòa án. Còn với quá trình thi hành án dân sự, vi bằng giúp cho các chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền tổ chức thi hành án có thêm cơ sở, căn cứ để tiến hành các hoạt động thi hành án. Từ đó, quá trình thi hành án dân sự diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và đúng quy định pháp luật. Đồng thời, đối với xã hội, vi bằng của Thừa phát lại đã góp phần hỗ trợ tích cực cho cá nhân, tổ chức xác lập chứng cứ, hạn chế các tranh chấp, rủi ro pháp lý trong các giao dịch, từ đó kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Hay có thể khẳng định, “tác dụng của Thừa phát lại với chức năng lập vi bằng sẽ làm giàu nguồn chứng cứ và là cơ chế để người dân tự bảo vệ quyền lợi của mình”[7].
2. Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại và một số bất cập
Hiện nay, pháp luật quy định chỉ Thừa phát lại mới là chủ thể có quyền lập vi bằng. Vì vậy, đây là hoạt động đặc thù của riêng Thừa phát lại. Do nhu cầu từ thực tiễn xã hội nên nội dung vi bằng thể hiện sự phong phú trên khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Pháp luật quy định cho phép Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ trường hợp các việc mà Thừa phát lại không được làm, các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng, xâm phạm đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm; hoặc các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng, thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp hoặc các trường hợp khác do pháp luật quy định[8]. Ngoài ra, Thừa phát lại cũng không được phép lập vi bằng đối với các trường hợp liên quan đến quyền, lợi ích bản thân Thừa phát lại hay của những người thân thích của Thừa phát lại hoặc các vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức đang thi hành công vụ trừ trường hợp sự kiện, hành vi đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của người yêu cầu lập vi bằng[9].
Các quy định điều chỉnh về việc lập vi bằng của Thừa phát lại được quy định từ Điều 25 đến Điều 29 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và các khoản 8, 9 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Trên thực tế, lập vi bằng là hoạt động chính và là nguồn thu chủ yếu của các văn phòng Thừa phát lại hiện nay. Theo số liệu thống kê từ các văn phòng Thừa phát lại trên cả nước, hoạt động lập vi bằng với 42.911 vi bằng được lập và doanh thu gần 59 tỷ đồng (chiếm 43% tổng doanh thu). Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án chiếm tỷ trọng nhỏ với 885 việc xác minh và 378 vụ việc trực tiếp tổ chức thi hành án, doanh thu của 02 loại công việc trên mới đạt gần 8 tỷ đồng (chiếm 6% tổng doanh thu)”[10]. Tuy nhiên, hiện nay, do vẫn chưa có luật về Thừa phát lại nên các quy định về hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại đang tồn tại khá nhiều hạn chế, bất cập.
Trên thực tế, do những quy định không có sự thống nhất nên dẫn đến tình trạng một số Sở Tư pháp “căn cứ vào Công văn số 1128/BTP-TCTHADS ngày 18/4/2014 của Bộ Tư pháp (về việc tổ chức thực hiện thí điểm Thừa phát lại) từ chối đăng ký các vi bằng có nội dung ghi nhận sự kiện các bên ký tên vào văn bản (hợp đồng, giao dịch không bắt buộc phải công chứng, hoặc các tờ khai, cam kết, xác nhận, trình bày…) với lý do là thuộc lĩnh vực công chứng, chứng thực. Thực chất, các văn phòng Thừa phát lại chỉ lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi, chứ không chứng nhận nội dung hợp đồng, giao dịch hay chứng thực chữ ký. Việc từ chối đăng ký một số vi bằng nêu trên, gây khó khăn rất nhiều cho các văn phòng Thừa phát lại trong quá trình hoạt động”[11].
Ngoài ra, liên quan đến việc vi bằng sau khi được Thừa phát lại lập sẽ phải đăng ký tại Sở Tư pháp thì mới được coi là hợp lệ cũng đang gây ra khá nhiều khó khăn cho các bên và không đảm bảo được quyền lợi của người có nhu cầu lập vi bằng. Theo quy định, vi bằng sẽ được lập thành ba bản chính, trong đó, một bản sẽ giao cho người yêu cầu lập vi bằng, một bản lưu trữ tại văn phòng Thừa phát lại và một bản còn lại sẽ phải gửi đến Sở Tư pháp trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày lập vi bằng[12]. Trong thời hạn không quá hai ngày làm việc kể từ ngày Sở Tư pháp nhận được vi bằng, Sở Tư pháp sẽ phải vào sổ đăng ký vi bằng của Thừa phát lại[13]. “Việc đăng ký vi bằng được coi là hoàn thành và vi bằng được coi là hợp lệ sau khi vào sổ đăng ký. Sở Tư pháp đóng dấu xác nhận đã đăng ký lên vi bằng được đăng ký”[14]. Như vậy, phải đến khi kết thúc quá trình này thì vi bằng mới chính thức có hiệu lực pháp luật. Song quy định này không thật sự hợp lý và quyền lợi của người yêu cầu lập vi bằng chưa thực sự được bảo vệ. Bởi lẽ, quy định này làm cho vi bằng không thể được sử dụng ngay sau khi lập với lý do, vi bằng đó chưa được đăng ký nên chưa có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, chủ thể yêu cầu lập vi bằng cũng không biết được đến lúc nào vi bằng của họ mới có hiệu lực pháp luật. Vì chủ thể yêu cầu lập vi bằng không thể nắm bắt được quá trình tiến hành các thủ tục đăng ký vi bằng giữa Văn phòng Thừa phát lại với Sở Tư pháp.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì cá nhân, tổ chức muốn lập vi bằng sẽ phải thỏa thuận với Trưởng Văn phòng Thừa phát lại về việc lập vi bằng và việc thỏa thuận này cũng sẽ phải lập thành hai bản. Điều này có nghĩa là Thừa phát lại chỉ được quyền lập vi bằng sau khi người yêu cầu lập vi bằng đã đạt được thỏa thuận với Trưởng Văn phòng Thừa phát lại. Tuy nhiên, quy định này chưa thật sự hợp lý vì không tạo điều kiện đảm bảo tốt nhất cho quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng. Sở dĩ như vậy là vì, vi bằng có đặc thù ghi nhận các sự kiện, hành vi khách quan tức thời nên luôn cần phải kịp thời, nhanh chóng để mang lại hiệu quả tốt nhất. Nếu xảy ra trường hợp người yêu cầu đến Văn phòng Thừa phát lại để thỏa thuận lập vi bằng nhưng Trưởng Văn phòng Thừa phát lại không có mặt thì các “Thừa phát lại cũng không thể lập vi bằng để ghi nhận sự kiện, hành vi cần được ghi nhận ngay sau đó”[15]. Điều này gây ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng và làm phát sinh sự lệ thuộc giữa việc lập vi bằng với Trưởng Văn phòng Thừa phát lại.
3. Một vài kiến nghị
Từ thực tế hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại cho thấy, các quy định về lập vi bằng hiện vẫn còn khá nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại, cần thiết xem xét các giải pháp sau:
Thứ nhất, một trong những hạn chế lớn của vi bằng là vi bằng sau khi được lập chưa có hiệu lực pháp luật ngay. Bởi lẽ, như đã trình bày, pháp luật yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại phải đăng ký vi bằng với Sở Tư pháp thì vi bằng đó mới có hiệu lực pháp luật. Theo tác giả, quy định này chưa thật sự hợp lý và ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể lập vi bằng. Từ đó, tác giả cho rằng, pháp luật quy định cho Thừa phát lại quyền hạn đặc biệt được phép lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi xảy ra trong đời sống xã hội thì đồng thời với đó, Thừa phát lại cũng sẽ phải chịu trách nhiệm với nội dung vi bằng được lập. Hơn nữa, bản chất Thừa phát lại cũng giống như Luật sư vì đều là các hoạt động độc lập, hành nghề tự do và tự chịu trách nhiệm nên họ có thể tự mình đảm nhiệm các công việc tham gia. Ngoài ra, Văn phòng Thừa phát lại nơi nhận yêu cầu lập vi bằng thì mới là nơi phải có trách nhiệm bảo quản, lưu trữ vi bằng. Điều này mới thực sự hợp lý và phù hợp với bản chất của vi bằng. Vì vậy, nên sửa đổi quy định hiện nay theo hướng sau khi Thừa phát lại lập vi bằng thì vi bằng sẽ có ngay hiệu lực pháp luật. Thừa phát lại lập vi bằng phải chịu trách nhiệm với nội dung vi bằng được lập. Đồng thời, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại cũng sẽ phải chịu trách nhiệm cùng với Thừa phát lại về vi bằng đó. Điều này vẫn đảm bảo sự chặt chẽ, tuân thủ pháp luật của vi bằng và có thể nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của chủ thể yêu cầu lập vi bằng. Ngoài ra, để Sơ Tư pháp kịp thời nắm bắt và giám sát quá trình lập vi bằng của Văn phòng Thừa phát lại thì nên tổ chức triển khai và phát triển mô hình mạng dữ liệu điện tử. Ngay sau khi Thừa phát lại lập vi bằng, thì Văn phòng Thừa phát lại sẽ phải báo cáo các thông tin cần thiết về vi bằng vừa được lập để Sở Tư pháp kịp thời nắm bắt và giám sát.
Thứ hai, quy định tại Điều 29 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì cá nhân, tổ chức muốn lập vi bằng sẽ phải thỏa thuận với Trưởng Văn phòng Thừa phát lại về việc lập vi bằng. Tuy nhiên, quy định này lại tạo ra khó khăn cho Thừa phát lại và cũng không tạo thuận lợi cho khách hàng khi có nhu cầu lập vi bằng. Vì vi bằng thường có tính khẩn cấp, tức thời nên luôn cần phải kịp thời, nhanh chóng ghi nhận lại các sự kiện, hành vi đang diễn ra. Nếu Trưởng Văn phòng Thừa phát lại không có mặt để có thể thỏa thuận với chủ thể có yêu cầu lập vi bằng thì vi bằng cũng không thể được lập. Tác giả cho rằng, quy định này là chưa thật sự thỏa đáng và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Mặt khác, Thừa phát lại mới là chủ thể được pháp luật trao quyền lập vi bằng. Vì vậy, nếu như cần thỏa thuận thì chỉ cần Thừa phát lại và khách hàng thỏa thuận với nhau. Thừa phát lại sẽ có thể nhanh chóng tiến hành lập vi bằng và chịu trách nhiệm về nội dung vi bằng. Từ đó, theo tác giả, quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP cần thiết phải được sửa đổi lại theo hướng cho phép Thừa phát lại và khách hàng có thể tự do thỏa thuận về việc lập vi bằng. Có như vậy mới tạo nên sự chủ động trong hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại và đảm bảo tính khẩn cấp, kịp thời khi ghi nhận các sự kiện, hành vi đang diễn ra.
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[1]. Nguyễn Vinh Hưng (2017), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, Tạp chí Kiểm sát điện tử, nguồn truy cập: http://www.kiemsat.vn/thua-phat-lai-trong-thi-hanh-dan-su.html , ngày truy cập 03/3/2018.
[2]. Nguyễn Vinh Hưng (2018), Cần nghiên cứu, đổi mới cơ chế hoạt động của Thừa phát lại ở nước ta hiện nay, Dân chủ và Pháp luật, số 01, tr. 27.
[3]. Nguyễn Vinh Hưng (2018), Nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát, số 20.
[4]. Phạm Phúc Thịnh (2014), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 46.
[5]. Nguyễn Đức Chính (chủ biên 2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb. Tư pháp, tr. 62 - 63.
[6]. Khoản 1 và 3 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
[7]. Nguyễn Đức Chính (chủ biên 2006), Tổ chức Thừa phát lại, sđd, tr. 65.
[8]. Khoản 8 Điều 2 Nghị định số 135/NĐ-CP ngày 18/10/2013 về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh.
[9]. Mục 1.1, phần 1, Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 về hướng dẫn một số nội dung trong hoạt động Thừa phát lại.
[10]. Báo cáo số 538/BC-CP của Chính phủ ngày 19/10/2015, về tổng kết việc triển khai tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, tr. 9.
[11]. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2016), Thực tiễn hoạt động Thừa phát lại quận Bình Thạnh, nguồn truy cập: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=124 , ngày 19/12/2016.
[12]. Khoản 4 Điều 26 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh.
[13]. Khoản 9 Điều 2 Nghị định số 135/NĐ-CP ngày 18/10/2013 về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh.
[14]. Mục 1.2, phần 1, Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 về hướng dẫn một số nội dung trong hoạt động Thừa phát lại.
[15]. Phạm Phúc Thịnh (2014), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, sđd, tr. 49.