Về quan hệ dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2005 không định nghĩa quan hệ dân sự mà quy định liệt kê những quan hệ được gọi chung là quan hệ dân sự (Điều 1). Với cách liệt kê này dễ gây nên việc quy định vừa thiếu, vừa thừa. Dó đó, để khắc phục điều này, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định: Quan hệ dân sự được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng vì nó sẽ làm nền để quy định những vấn đề khác, ví dụ như sẽ không còn là quy định “lợi ích của Nhà nước”, mà được thay bằng quy định “lợi ích của quốc gia, dân tộc”.
Về các nguyên tắc cơ bản
Bộ luật Dân sự năm 2005 đã dành một chương để quy định về các nguyên tắc cơ bản. Trong các nguyên tắc này, nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 5, theo đó, nhà làm luật đã dùng phương pháp liệt kê (các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về “dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp” để đối xử không bình đẳng với nhau), nhưng dường như Nhà nước không nằm trong nội hàm của nguyên tắc này, tức Nhà nước không thuộc đối tượng bình đẳng. Bên cạnh đó, trong phần liệt kê lại không có “quốc tịch”, điều này là trái với nguyên tắc bình đẳng.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các nguyên tắc thành một điều (Điều 3), ngắn gọn hơn nhưng phản ánh được những đặc trưng và nguyên lý cơ bản nhất của quan hệ dân sự, pháp luật dân sự. Bộ luật này cũng đã có thay đổi rõ nét khi:
(i) Không ghi nhận lại nguyên tắc tuân thủ pháp luật vì nguyên tắc này được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, trong khi đó, Bộ luật Dân sự chỉ là chuẩn mực ứng xử, nếu thấy không phù hợp thì các chủ thể có thể lựa chọn ứng xử khác;
(ii) Đối với ba nguyên tắc là nguyên tắc căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự; nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp và nguyên tắc hòa giải thì được quy định thành chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự. Về nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, nguyên tắc này dễ tạo ra sự ràng buộc, ví dụ như sẽ là rào cản, ràng buộc đối với một số phong tục của dân tộc, hay như vấn đề chuyển đổi giới tính cũng sẽ khó được tiếp nhận… do đó, nguyên tắc này được xây dựng thành chính sách pháp luật là phù hợp. Về nguyên tắc hòa giải, đây là vấn đề hòa giải ngoài Tòa án, hiệu quả hòa giải rất thấp, vì vậy không quy định hòa giải là bắt buộc mà đưa thành chính sách khuyến khích việc hòa giải. Liên quan đến hòa giải, hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định về việc công nhận hòa giải ngoài Tòa án tại Chương XXXIII, đây là tín hiệu “đáng mừng”, sẽ nâng cao được hiệu lực, hiệu quả của hòa giải, khuyến khích việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài Tòa án.
Về trách nhiệm của Tòa án và việc sử dụng án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có bổ sung rất quan trọng khi quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật để áp dụng. Cùng với đó là việc bổ sung công cụ pháp lý như nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng, tức là trong trường hợp nếu không có tập quán và không áp dụng được tương tự pháp luật thì Tòa án vận dụng những công cụ pháp lý bổ sung này để giải quyết vụ việc.
Theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì “án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố”, theo đó, ngày 06/4/2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 220/QĐ-CA quyết định về việc công bố án lệ.
Cũng theo quy định tại Điều 45 này, thì lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được “mọi” người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó. Quy định về lẽ công bằng trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có vẻ như chưa thực sự phù hợp, bởi vì, lẽ công bằng thường không được đặt ra trong trường hợp mà nó đã là lẽ phải được “mọi” người trong xã hội thừa nhận, hơn nữa Tòa án cũng không thể lấy ý kiến của mọi người trong xã hội để xác định đó là lẽ công bằng được. Vấn đề lẽ công bằng thường được đưa ra khi giải quyết những trường hợp đặc biệt mà trong đó lẽ phải khó được thừa nhận như quyền của người vô gia cư, ly thân, bác sỹ chữa bệnh cho người có hành vi trái pháp luật, điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, thông báo xử lý tài sản bảo đảm... Khi đưa ra lẽ công bằng cũng đã có nhiều quan điểm, tranh luận về cách hiểu và việc áp dụng. Trong đó, có quan điểm cho rằng, lẽ công bằng là những giá trị, tư tưởng, quan điểm đạo đức có sẵn trong đời sống xã hội, Nhà nước đúc kết lẽ công bằng ấy thành các quy định pháp luật; cái gì chưa đúc kết thì tự thân xã hội vận động, ứng xử theo lẽ thường của nó; với những trường hợp chưa có luật quy định ấy, khi tranh chấp xảy ra, Tòa phải dựa vào lý lẽ về công bằng đó để giải quyết, thuyết phục, thỏa mãn các bên tranh chấp. Nhiều ý kiến cũng tỏ ra lo ngại việc sử dụng lẽ công bằng sẽ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của thẩm phán, dễ dẫn đến sự tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Mặc dù vậy, lẽ công bằng cũng chỉ được áp dụng trong rất ít trường hợp khi chưa có điều luật để áp dụng, không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, hơn nữa không thể cho rằng tất cả các hội đồng xét xử đều sẽ tùy tiện phán xử; quan trọng là không thể phủ nhận lợi ích mà việc quy định, áp dụng lẽ công bằng đem lại.
Về pháp nhân
Chủ thể của pháp luật dân sự được xác định dựa trên một số tiêu chí như: Phải được xác định cụ thể, độc lập về tài sản khi tham gia quan hệ, tự chịu trách nhiệm dân sự… chính vì vậy, chủ thể của pháp luật dân sự chỉ bao gồm cá nhân và pháp nhân.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, “mọi” cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 74). Việc Bộ luật này bổ sung từ “mọi” là để tránh rào cản pháp lý khi có những biến động, thay đổi không lường trước được, hơn nữa, nếu cần thiết phải có điều kiện nào đó đối với chủ thể được thành lập pháp nhân trong từng lĩnh vực thì đã có các luật chuyên ngành quy định.
Khác với việc phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 phân loại pháp nhân bao gồm pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Đặc điểm khác biệt giữa hai loại pháp nhân này là: Pháp nhân thương mại có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, còn pháp nhân phi thương mại không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Ví dụ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là pháp nhân phi thương mại, hội này được xác định là pháp nhân dựa trên khoản 2 Điều 9 Hiến pháp năm 2013; khoản 1 Điều 74 và khoản 2 Điều 76 Bộ luật Dân sự năm 2015. Về nguyên tắc, pháp nhân cần phải được công nhận, ghi nhận thì mới thành pháp nhân, nhưng hiện nay nhiều tổ chức, đơn vị dù chưa được công nhận nhưng vẫn được coi là pháp nhân, đây là khoảng trống của pháp luật cần phải nghiên cứu tìm phương án giải quyết.
Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp nhân. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, thực tế có những đơn vị mặc dù lấy tên là chi nhánh, văn phòng đại diện nhưng bản chất lại không phải là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân mà chính đơn vị đó là pháp nhân, khi đó nó phải tự chịu hoàn toàn trách nhiệm dân sự của một pháp nhân.
Về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định người chưa đủ sáu tuổi thuộc diện không có năng lực hành vi dân sự (Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định vấn đề này tại Điều 21). Quy định này là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, không thể từ khi một đứa trẻ sinh ra cho đến khi chưa đủ sáu tuổi lại không có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự nào đó. Bên cạnh đó, quy định này cũng đã khắc phục được bất cập trên thực tế khi áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005, theo đó, đối với những giao dịch của trẻ chưa đủ sáu tuổi nếu không được bố, mẹ đồng ý thì đều bị tuyên là vô hiệu mà không cần phải tính đến tiêu chí vì lợi ích của đứa trẻ, điều này là chưa phù hợp, vì thực tế có những giao dịch dù không thuộc trường hợp nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, nhưng lại rất cần thiết, cấp thiết đối với lợi ích của đứa trẻ lúc đó, thì trường hợp này có thể xem xét để không tuyên giao dịch vô hiệu.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người chưa thành niên được quy định cụ thể, linh hoạt hơn. Trong đó, đáng chú ý là quy định về “người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”, thay vì quy định cũ là trường hợp “người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Theo đó, người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Việc quy định này đã giải quyết được trường hợp thực tế những người “lửng lơ” giữa có và mất năng lực hành vi dân sự mà Bộ luật Dân sự năm 2005 đã để lại khoảng trống.
Về giám hộ
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cần thiết như:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền lựa chọn người giám hộ cho mình khi họ ở tình trạng cần được giám hộ (khoản 2 Điều 48). Điều này thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với ý chí của người được giám hộ - chủ thể được coi là yếu thế trong các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và các giao dịch dân sự nói riêng.
- Việc cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này. Quy định này thể hiện sự tôn trọng ý chí, nguyện vọng cũng như nhằm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ vị thành niên.
- Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “pháp nhân” được làm người giám hộ nếu phù hợp và bảo đảm một số điều kiện nhất định. Trong khi Bộ luật Dân sự năm 2005 thì lại quy định là “tổ chức” làm người giám hộ với những điều kiện cũng như một số vấn đề khác về việc giám hộ của tổ chức chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng.
- Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch (kể cả giám hộ đương nhiên), nhưng người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Quy định này vừa làm tăng trách nhiệm và rõ ràng hơn trong việc giám hộ (đặc biệt là việc phân định trách nhiệm trong giám hộ đương nhiên), vừa bảo đảm quyền lợi cho người được giám hộ trong mọi trường hợp đều có người chăm sóc, nuôi dưỡng.
Ngoài ra, về vấn đề giám hộ, cũng cần lưu ý là mặc dù có người giám hộ nhưng sẽ không làm mất đi trách nhiệm của cha mẹ người được giám hộ, do đó nếu luật quy định cần sử dụng tài sản của cha mẹ để bồi thường thiệt hại do con gây ra thì dù cha mẹ người đó bị tâm thần cũng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường này, còn đối với người giám hộ nếu chứng minh mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải dùng tài sản của mình để bồi thường (Điều 586).
Về tài sản
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính khái quát, dự báo và minh bạch về tài sản, theo đó, một số nội dung được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai (tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch; tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản chưa hình thành và tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch).
- So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, trong quy định về quyền tài sản đã bổ sung “quyền sử dụng đất”, bên cạnh đó bỏ việc quy định “có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự”, điều này sẽ khắc phục được tình trạng trong thế giới công nghệ như hiện nay, một số sản phẩm công nghệ điện tử dù không được chuyển giao trong giao dịch dân sự nhưng vẫn được coi là tài sản. Việc quy định về tài sản hình thành trong tương lai là một bước tiến trong khoa học pháp lý và cũng là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển các giao dịch dân sự.
Về giao dịch dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung về vấn đề giao dịch dân sự, theo đó không những thể hiện sự linh hoạt hơn, tôn trọng tự do ý chí của chủ thể, hạn chế rủi ro pháp lý mà còn tránh việc tuyên bố giao dịch vô hiệu một cách tùy tiện, cụ thể như:
- Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự chỉ quy định là người tham gia giao dịch dân sự có “năng lực hành vi dân sự”, trong khi pháp nhân thì không thể có năng lực hành vi dân sự nên có thể suy ra là đã thiếu quy định chủ thể “pháp nhân” tham gia giao dịch dân sự. Khắc phục điểm này, Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định chủ thể có “năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự” phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Ngoài ra, về điều kiện có hiệu lực này, tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quy định mục đích và nội dung của giao dịch không được vi phạm điều cấm của “luật” thay cho quy định không được vi phạm điều cấm của “pháp luật” trong Bộ luật Dân sự năm 2005, việc sửa đổi này là phù hợp vì “pháp luật” mang nghĩa rất rộng (bao gồm cả các văn bản dưới luật) nên dễ dẫn đến giao dịch bị tuyên vô hiệu một cách không cần thiết.
- Một số giao dịch của những chủ thể đặc biệt có thể sẽ không bị tuyên vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015. Quy định này là cần thiết nhằm hạn chế việc tuyên giao dịch vô hiệu tùy tiện ảnh hưởng đến lợi ích của chính đáng của các chủ thể giao kết, đồng thời vẫn bảo vệ được quyền lợi của những người yếu thế.
- Mục đích của giao dịch dân sự quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 là lợi ích “hợp pháp” mà các bên mong muốn đạt được, còn trong Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đã bỏ từ “hợp pháp” và khi đó mục đích ở đây sẽ chỉ là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được. Việc sửa đổi này là phù hợp, không nên ràng buộc mục đích của giao dịch phải là hợp pháp
- Khác với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có trừ trường hợp “mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được”, tức là trong trường hợp này giao dịch sẽ không vô hiệu.
- Đối với giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, nhưng theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đã có ngoại lệ, trong một số trường hợp nhất định giao dịch này không bị vô hiệu (Điều 129). Quy định này được đặt ra trên cơ sở tôn trọng thực tế thực hiện giao dịch và ý chí đích thực của chủ thể trong giao dịch, bảo đảm sự ổn định của giao dịch dân sự, các quan hệ liên quan và hạn chế sự không thiện chí của một bên trong việc lợi dụng việc không tuân thủ quy định hình thức này để không thực hiện cam kết của mình.
- Đối với việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngày tình khi giao dịch dân sự vô hiệu thì quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có bổ sung quan trọng đó là: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu; trường hợp này, chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba pahir hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Quy định này đã bảo vệ được triệt để hơn, tốt hơn quyền lợi của người thứ ba ngay tình; buộc chủ sở hữu tài sản phải có trách nhiệm kiểm soát tài sản thuộc sở hữu của mình; đồng thời góp phần thay đổi nhận thức của người dân đối với việc đăng ký tài sản, cũng như giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm công tác đăng ký tài sản.
Về thời hiệu
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Như vậy, nếu theo quy định của luật trước đây thì nhiều vụ án sẽ bị đình chỉ sau khi thụ lý do hết thời hiệu, nhưng theo quy định mới thì lại có thể không bị đình chỉ do hết thời hiệu bởi vì các bên không yêu cầu áp dụng thời hiệu. Quy định mới này cũng sẽ tạo ra hệ quả pháp lý là các vụ án có cùng nội dung và thời hiệu có thể có các kết quả giải quyết khác nhau phụ thuộc vào việc đương sự có đưa ra yêu cầu áp dụng thời hiệu hay không. Điều này có thể sẽ tạo nên một số khó khăn cho Tòa án và phần nào ảnh hưởng đến tâm lý, niềm tin của người dân.
Thời hiệu thừa kế cũng có sửa đổi cơ bản đó là thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế, thay vì quy định trước là 10 năm chung cho cả bất động sản và động sản. Đặc biệt Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về hậu quả khi hết thời hiệu thừa kế (Điều 623) mà Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa giải quyết được.
Một vấn đề cần lưu ý nữa về thời hiệu là về nguyên tắc, đối với những trường hợp không quy định thời hiệu thì sẽ không áp dụng thời hiệu.
Về chiếm hữu
Nhằm bảo đảm giữ ổn định các quan hệ liên quan đến tài sản, trật tự, an toàn xã hội, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về chiếm hữu độc lập với quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản theo cách tiếp cận tôn trọng tình trạng thực tế - mối quan hệ thực tế giữa người chiếm hữu và tài sản. Trong đó, đáng lưu ý là về việc suy đoán tình trạng và quyền của người chiếm hữu. Theo đó, người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình, là người có quyền đối với tài sản, còn người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình hay có tranh chấp quyền tài sản đối với người chiếm hữu thì phải chứng minh. Nếu trong trường hợp cần thiết và có thể tin chắc rằng người chiếm hữu là không ngay tình thì có thể đề nghị áp dụng quyết định tiền tố tụng để tránh trường hợp hủy hoại, tẩu tán… tài sản.
Về quyền bề mặt
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác (Điều 267). Đây là quyền mới được bổ sung. Việc quy định quyền bề mặt cũng được coi là bước tiến của khoa học pháp lý, nó sẽ kích thích đầu tư, phát triển kinh tế. Vì sao lại như vậy? Có thể thực hiện một phép so sánh: Đối với việc thuê đất, ao hồ để đầu tư xây dựng hạ tầng, đầu tư xây dựng để nuôi trồng thủy sản thì việc thực hiện phải tuân theo hợp đồng thuê, bên cho thuê có thể hủy ngang hợp đồng và họ sẵn sàng bồi thường nếu việc hủy ngang đem lại cho họ lợi ích nhiều hơn, điều này tạo sự “gò bó”, kém linh hoạt vì phải tuân theo hợp đồng thuê, đồng thời gây tâm lý lo sợ cho nhà đầu tư (người thuê) nên họ sẽ e dè và không muốn đầu tư “hết mình”. Trong khi đó, khi nhà đầu tư, kinh doanh có được quyền bề mặt, thì quyền này được thực hiện chủ yếu theo luật định, không “bó hẹp” vào quy định của hợp đồng nào đó, các chủ thể không thể tự ý hủy ngang và trong thời hạn được ấn định đó, người có quyền bề mặt có các quyền tương tự như quyền của chủ sở hữu (được bán lại, cho thuê một phần hoặc toàn bộ quyền bề mặt, được thế chấp…).
Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế - xã hội, định hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi. Quy định về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố làm lãi suất tham chiếu trong xác định lãi suất trần; trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quy định mức lãi suất cố định làm lãi suất trần. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định linh hoạt hơn nhằm phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội, đó là: (i) Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh lãi suất trần và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất; (ii) Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù. Quy định này áp dụng cho quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại và các loại vay đặc thù khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, vay vàng, ngoại tệ... nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Quy định căn cứ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 có sự thay đổi quan trọng. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người nào có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm… mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”, trong khi Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm… mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, theo quy định mới thì lỗi ở đây là lỗi suy đoán, tức là khi có hành vi xâm phạm gây thiệt hại thì người gây thiệt hại sẽ bị suy đoán là có lỗi và phải bồi thường, mà người bị thiệt hại không có nghĩa vụ phải chứng minh; nếu người này cho rằng mình không có lỗi thì phải tìm cách gạt bỏ sự suy đoán đó bằng cách chứng minh điều ngược lại. Quy định này sẽ làm giảm gánh nặng cho bên bị thiệt hại, đặc biệt là nhiều trường hợp sẽ bảo vệ được bên yếu thế trong quan hệ dân sự.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu Diễn đàn Thanh niên với Bộ luật Dân sự năm 2015 tổ chức ngày 08/11/2016 nhằm hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam 09/11.