Thứ nhất, về khái niệm người bào chữa
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm cụ thể về người bào chữa, theo đó: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”. Quy định này góp phần xác định rõ về tư cách, địa vị tố tụng của người bào chữa, từng bước nâng cao vị thế, vai trò của luật sư tham gia trong tố tụng hình sự. Theo khoản 2 Điều 72 của Bộ luật này, người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một đối tượng được công nhận là người bào chữa là trợ giúp viên pháp lý. Khoản 4 Điều 72 Bộ luật này cũng quy định 11 trường hợp không được làm người bào chữa, tăng thêm 05 trường hợp so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, bao gồm: Người dịch thuật; người định giá tài sản; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thứ hai, về thủ tục đăng ký bào chữa
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng có sự điều chỉnh mới về thủ tục đăng ký bào chữa nhằm thay thế thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa rườm rà như trước đây. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa, tuy nhiên, trên thực tế thủ tục này thường bị kéo dài hơn rất nhiều. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận đầy đủ giấy tờ của người bào chữa, thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải kiểm tra giấy tờ, vào sổ đăng ký bào chữa và gửi thông báo cho người đăng ký. Quy định nêu trên đã góp phần hạn chế được những bất cập, khó khăn cho luật sư khi tiếp cận, tham gia bào chữa trong vụ án hình sự.
Thứ ba, về quyền của người bào chữa
Quyền của người bào chữa được quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được mở rộng hơn so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Đây là một bước tiến rất quan trọng, giúp người bào chữa thực thiện được vai trò, trách nhiệm của mình một cách đầy đủ hơn, qua đó đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế các trường hợp oan sai, bức cung, nhục hình. Cụ thể, quyền của người bào chữa được mở rộng như sau:
- Người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội, có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, khi người bị bắt bị người tiến hành tố tụng lấy lời khai thì người bào chữa cho người bị bắt có quyền có mặt để nghe việc lấy lời khai (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định người bào chữa có mặt khi người tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt). Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định: Sau mỗi lần người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đối với người bị buộc tội kết thúc, thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi có sự đồng ý của điều tra viên như trước kia. Quy định mới này nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp; đồng thời, hạn chế sự lạm quyền từ phía cơ quan tố tụng, bắt người không cần thiết và giúp cho người bào chữa được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi hơn trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ để có thể bào chữa cho người bị buộc tội ở giai đoạn sau của quá trình tố tụng hình sự.
- Người bào chữa có quyền được tham gia vào các hoạt động tố tụng và được báo trước về thời gian, địa điểm. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trong các hoạt động điều tra, người bào chữa chỉ được có mặt và được cơ quan điều tra báo trước thời gian, địa điểm trong hoạt động lấy lời khai người tạm giữ, hỏi cung bị can. Nếu người bào chữa muốn tham gia vào hoạt động điều tra khác phải được điều tra viên đồng ý. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho phép ngoài việc được có mặt trong hoạt động lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can, người bào chữa còn được có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động điều tra khác và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm khi tiến hành các hoạt động này. Quy định này sẽ góp phần làm cho công tác điều tra khách quan hơn, tránh oan sai trong quá trình tố tụng.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, tùy từng giai đoạn tố tụng nếu thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan tố tụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
- Ngoài việc quy định người bào chữa có quyền thu thập đồ vật, tài liệu có liên quan trong vụ án như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung thêm về quyền của người bào chữa trong việc kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đây là một quy định hoàn toàn mới về quyền của người bào chữa. Quy định mới này đã phá bỏ sự độc quyền của các cơ quan tố tụng trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, bảo đảm sự công bằng trong quá trình chứng minh, tăng cường tranh tụng, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình thu thập chứng cứ.
- Khi thấy chứng cứ trong hồ sơ vụ án chưa đủ để làm sáng tỏ sự thật khách quan hoặc việc giám định, định giá không khách quan, toàn diện, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Có thể thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định khá chi tiết, cụ thể về quyền của người bào chữa theo hướng mở rộng hơn trước nhiều, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. Các quy định mới về quyền của người bào chữa sẽ giúp nâng cao vị thế của người luật sư nói riêng và người bào chữa nói chung, tạo bước chuyển lớn trong cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, vẫn còn một số quyền mà pháp luật quy định cho người bào chữa, nhưng để thực hiện được quyền đó một cách hiệu quả thì lại phụ thuộc nhiều vào cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ, khoản 1 Điều 79 quy định: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này”. Mặc dù vậy, luật không quy định thế nào là “thời gian hợp lý” nên người bào chữa rất khó chủ động để thực hiện quyền của mình và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Vì vậy, thiết nghĩ, cần phải có văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đối với các nội dung mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người bị buộc tội và nâng cao vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự, hướng đến mục tiêu cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Công ty Luật TNHH SMiC