1. Đối tượng người yếu thế và quyền của đối tượng người yếu thế
Khái niệm các nhóm người (đối tượng) yếu thế được sử dụng rất phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế, các hoạt động nghiên cứu và thực tiễn về quyền con người trên thế giới. Mặc dù không có định nghĩa chính thức chung nào được đưa ra về các nhóm người yếu thế, tuy nhiên, từ các nguồn tài liệu và thực tiễn về quyền con người, có thể hiểu rằng, khái niệm này chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác[1]. Trước đây, nếu như nói đến quyền của các đối tượng yếu thế, người ta thường nghĩ tới vấn đề quyền của phụ nữ và trẻ em. Với xu hướng hiện nay, khi nhắc đến quyền của các đối tượng dễ bị tổn thương thì đã xuất hiện một số đối tượng mới, đó là nhóm người đồng tính[2], song tính[3], chuyển giới[4]; người cao tuổi; người khuyết tật; người dân tộc thiểu số; nhóm lao động di dân tự do…
Hiện nay, quan điểm về vị trí quyền của đối tượng yếu thế trong hệ thống các thế hệ quyền con người chưa thực sự thống nhất. Có ý kiến cho rằng, đây có thể xem là quyền tập thể (nhóm) nên có thể xem xét ở thế hệ quyền con người thứ ba[5] (mở rộng nội dung của thế hệ quyền con người này). Tuy vậy, tác giả cho rằng, đây là những xu hướng mới về quyền con người, có thể xem xét cấu thành thế hệ quyền con người thứ tư (bắt đầu từ thế kỷ XXI). Cơ sở hình thành thế hệ quyền con người thứ ba là sự liên đới, những quyền này bao quát quyền tập thể của một xã hội hoặc một dân tộc, như quyền phát triển bền vững, quyền sống trong hòa bình hoặc một môi trường trong lành... Trong khi đó, quyền của một số đối tượng yếu thế (dễ bị tổn thương) gắn liền với những xu hướng mới trong xã hội (về xu hướng tính dục[6], bản dạng giới[7], về sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa…). Những xu hướng mới gắn liền với những đối tượng cụ thể nhất định. Thế hệ quyền con người thứ ba là các quyền cụ thể (quyền tập thể - phát triển). Các quyền của đối tượng yếu thế hoàn toàn có thể ở cả ba thế hệ quyền con người nhưng chúng là xu hướng mới vì phạm vi đối tượng rộng hơn (ví dụ: Quyền kết hôn truyền thống chỉ là sự kết hợp giữa nam và nữ nhưng hiện nay đã xem xét giữa những cặp đôi cùng giới) và hoàn toàn có thể có quyền mới (ví dụ: Quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới).
Nếu như một số vấn đề chung về quyền con người hiện vẫn còn đang gây tranh cãi vì ở một số quốc gia bị coi là nhạy cảm, thì trong vấn đề quyền của các đối tượng người yếu thế, các quốc gia thường có sự đồng thuận và ủng hộ ở mức cao. Điều đó thể hiện ở việc hầu hết các điều ước quốc tế về quyền của các nhóm này, ví dụ: Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm 1989, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ của Liên hợp quốc năm 1979, Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2007... thường có số lượng quốc gia thành viên đứng hàng đầu trong các điều ước quốc tế về quyền con người.
2. Một số đánh giá pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về quyền của đối tượng người yếu thế hiện nay
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người là chủ trương nhất quán của Nhà nước ta. Việt Nam hiện nay đã tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế quan trọng về quyền con người[8]. Bên cạnh đó, tính đến tháng 5/2021, Việt Nam cũng đã phê chuẩn 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về quyền của người lao động[9]. Việt Nam đã và đang nỗ lực nội luật hóa các công ước quốc tế đã tham gia (trong đó có các nội dung liên quan đến xu hướng mới về quyền con người, đặc biệt liên quan đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương…) và xác định nguyên tắc xây dựng pháp luật không làm cản trở việc thực hiện các công ước quốc tế này. Giai đoạn gần 40 năm đổi mới cũng chứng kiến những thay đổi đáng kể mang tính tích cực của hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Điểm nhấn chính trong những thành tựu về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân là Hiến pháp năm 2013, số lượng lớn các luật, pháp lệnh trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân (trong đó có quyền của đối tượng người yếu thế) được ban hành. Đặc biệt là từ khi Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 ra đời thì những thành tựu đạt được trong việc thực hiện định hướng đảm bảo quyền con người quyền tự do dân chủ của người dân mà Nghị quyết số 48-NQ/TW đề ra càng đạt được nhiều khởi sắc, có thể được thể hiện rõ trên ba khía cạnh: (i) Tiếp tục tích cực ghi nhận và coi trọng việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người; (ii) Mở rộng hơn các quyền con người; (iii) Xác lập nguyên tắc quyền con người chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết. Hiến pháp năm 2013 quy định nhiều điểm tiến bộ lớn, đặc biệt trong các quy định về quyền con người, quyền công dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Chương II Hiến pháp năm 2013 được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định hợp lý của Hiến pháp năm 1992, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, bổ sung thêm những quy định mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Năm 2021, Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu cần “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”[10]. Đảng ta xác định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”[11]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) cũng yêu cầu “tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Ðảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và “thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân”… Theo tác giả, pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về quyền của một số đối tượng người yếu thế, tập trung giai vào đoạn sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành như sau:
Thứ nhất, về tổng thể, quyền của các đối tượng người yếu thế trong xã hội đã được chú trọng quan tâm, được ban hành thành luật riêng biệt như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật… hay được lồng ghép trong nhiều văn bản luật khác nhau (quyền của lao động di dân tự do, dân tộc thiểu số…). Pháp luật Việt Nam bước đầu có sự tiệm cận nhất định đối với các vấn đề mới của đời sống xã hội (về xu hướng tính dục, bản dạng giới). Ở những mức độ khác nhau, các quyền này đã được luật hóa, bảo đảm thực hiện các quyền về tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tôn giáo, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước; thể hiện sự tiến bộ hơn trong việc xác lập và thực thi các quyền về an sinh xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, bảo vệ nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội; thể hiện chính sách nhân đạo trong hình sự; bảo đảm an toàn về mặt pháp lý trong giao dịch dân sự; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp của người dân. Có thể thấy, trong gần 40 năm đổi mới, đặc biệt giai đoạn thi hành Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của các đối tượng yếu thế nói riêng đã có sự cải thiện khá rõ nét, ngày càng bảo đảm quyền lợi của các đối tượng có liên quan.
Thứ hai, đối chiếu với quy định của Hiến pháp năm 2013, định hướng của Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng cho thấy quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người nói chung và quyền của đối tượng người yếu thế nói riêng ở nước ta có lúc còn chưa kịp thời; một số nhóm quyền con người còn chưa đủ quy định của luật để bảo đảm thực hiện; việc tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực quyền con người còn có những hạn chế. Nhìn chung, hệ thống pháp luật về quyền của các đối tượng người yếu thế chưa thực sự đầy đủ, toàn diện và còn có một số hạn chế, bất cập. Quá trình tổ chức thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này còn gặp khó khăn, chưa thực sự thực chất (ví dụ: Nhóm thiểu số về xu hướng tính dục, bản dạng giới, nhóm người khuyết tật...). Nhận thức, quan niệm về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng giới là rào cản cơ bản dẫn đến khoảng cách giữa tư tưởng, ý thức về quyền con người với thực tiễn thể chế hóa cũng như tổ chức thi hành pháp luật.
3. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về quyền của đối tượng người yếu thế
3.1. Các yêu cầu, định hướng chung
Giai đoạn từ nay đến năm 2030 (đặc biệt giai đoạn 2026 - 2030), việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về quyền của đối tượng người yếu thế nói riêng cần đáp ứng một số yêu cầu, định hướng như sau (bám sát Hiến pháp năm 2013, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW):
Thứ nhất, cần hướng trọng tâm vào mục tiêu phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế về quyền con người.
Thứ hai, khi tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các đạo luật hiện hành từ góc độ quyền con người cần căn cứ đồng thời vào các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập để thực hiện việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Cần rà soát để loại bỏ các quy định hạn chế quyền con người đang được quy định trong các văn bản dưới luật vì vi phạm quy định của khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. Sớm xây dựng các văn bản pháp luật thực hiện quyền con người, quyền công dân về tự do lập hội, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do biểu tình. Cần khắc phục quan niệm quá nhấn mạnh, quá coi trọng các nội dung về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực báo chí, xuất bản, lập hội, tôn giáo, tín ngưỡng mà chưa quan tâm, coi trọng đúng mức đến việc thể hiện, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực này.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật về một số quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 bổ sung như quyền sống (Điều 19), quyền được hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42), quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43)... Nghiên cứu, hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các nhóm chủ thể đặc thù như người dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính, chuyển giới… Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của công dân trong việc tiếp cận pháp luật và hệ thống tư pháp với mục tiêu cải cách sâu rộng quan hệ giữa Nhà nước với người dân, tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận, sử dụng và hưởng thụ các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Thứ tư, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, về quyền con người, quyền công dân. Thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, đúng đắn quan điểm, định hướng của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII và các quy định của Hiến pháp năm 2013 thành các đạo luật, văn bản pháp luật về quyền con người, quyền công dân; bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết... tạo cơ sở pháp lý bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; khắc phục tình trạng ban hành luật khung, luật ống về quyền con người, quyền công dân khi nội dung đã rõ, đã chín muồi; đồng thời, cần khắc phục tình trạng luật quy định quá cụ thể, bảo đảm tính ổn định, hiệu lực lâu dài của pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, tổ chức thẩm định những hồ sơ dự án, dự thảo xây dựng các văn bản pháp luật khi bảo đảm đủ điều kiện, thủ tục theo quy định của pháp luật mới được tổ chức triển khai quy trình xây dựng dự án, dự thảo đó để khắc phục tình trạng: Chất lượng các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao và tình trạng các dự án, dự thảo văn bản sau khi đã đưa vào chương trình nhưng phải xin lùi, rút điều chỉnh.
Thứ năm, nâng cao kỹ thuật lập pháp; hiện đại hóa phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật về quyền con người, quyền công dân; ứng dụng thành tựu của khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật về quyền con người, quyền công dân.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện và loại bỏ kịp thời các văn bản trái với các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và luật. Gắn kết chặt chẽ công tác này với công tác xây dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong công tác xây dựng luật, pháp lệnh về quyền con người, quyền công dân.
Thứ bảy, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân: (i) Xây dựng, ban hành quy định cụ thể tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân làm công cụ phục vụ nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân; (ii) Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành và xác định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương trong tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân; (iii) Nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật về tổ chức thi hành pháp luật, trong đó có thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân để thực hiện một cách thống nhất công tác tổ chức thi hành pháp luật, công tác theo dõi thi hành pháp luật nói chung và pháp luật về quyền con người, quyền công dân nói riêng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của những hoạt động này.
Thứ tám, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý về quyền con người, quyền công dân, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân, đặc biệt, các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương tiếp cận công lý. Cần phát triển đồng bộ các dịch vụ pháp lý, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ pháp lý. Có chính sách cụ thể để phát triển các tổ chức, dịch vụ pháp lý có chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu hỗ trợ pháp lý của người dân, doanh nghiệp tiếp cận công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Có cơ chế hỗ trợ để tăng cường mạng lưới trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật miễn phí cho các đối tượng dễ bị tổn thương được trợ giúp pháp lý miễn phí (như các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, các đối tượng bị xâm hại tình dục, bạo lực gia đình…). Tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp (công chứng, bán đấu giá tài sản...) nhằm mang lại các dịch vụ tốt nhất cho người dân bình đẳng cơ hội tiếp cận dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
3.2. Một số giải pháp cụ thể
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền của các đối tượng yếu thế.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tạo cơ hội tiếp cận các quyền về an sinh xã hội, các dịch vụ y tế, giáo dục và nhà ở cho trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính, chuyển giới...
Chú trọng hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền trẻ em, bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; quyền của người khuyết tật; quyền của người dân tộc thiểu số, xóa bỏ sự phân biệt đối xử và định kiến xã hội đối với người dân tộc thiểu số, quyền của nhóm đồng tính, song tính, chuyển giới; bảo đảm các cộng đồng thiểu số (dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính, chuyển giới...) được tham vấn, tham khảo trong quá trình ra quyết định về các vấn đề có tác động đến họ; xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm ngăn chặn sự ngược đãi...
Xây dựng hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo cơ sở pháp lý phòng, chống có hiệu quả tội phạm buôn bán người; triển khai các giải pháp hỗ trợ tái hòa nhập cho các nạn nhân bị mua bán; tăng cường hợp tác phòng, chống buôn bán người và bảo đảm quyền của các nạn nhân. Xem xét lộ trình gia nhập Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ năm 1990, Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích năm 2006.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp; bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thiết chế xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, huy động sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện các quy định để có cơ sở thiết lập các “kênh” tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuận tiện và tăng tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vi phạm quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện các quy định để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân của các thiết chế xã hội.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế truyền thông, báo chí góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân tuân thủ nguyên tắc hiến định về tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận trên truyền thông, báo chí nhưng đó là nhóm quyền có thể bị hạn chế, giới hạn vì quyền dân tộc tự quyết; quyền bí mật riêng tư... của cá nhân, tổ chức; hoàn thiện các quy định để khắc phục tính hai mặt của thiết chế truyền thông, báo chí đối với vấn đề dân chủ, quyền con người, quyền công dân để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực khi truyền thông, báo chí bị các thế lực lợi dụng để chống lại quyền tự quyết của dân tộc, quyền con người, quyền công dân.
Thứ năm, để pháp luật phát huy vai trò, tác dụng đích thực của mình, cần đặc biệt coi trọng và đề cao việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật đến năm 2030. Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành phải được ban hành đồng bộ với thời điểm có hiệu lực của luật, tránh tình trạng chờ nghị định, thông tư hướng dẫn mới có thể đưa vào thực thi. Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, đúng đối tượng, trúng vấn đề, đáp ứng nhu cầu của người dân. Bên cạnh đó, mở rộng cơ chế khuyến khích, huy động các tổ chức xã hội, các nguồn lực xã hội hóa vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Đưa giáo dục ý thức pháp luật vào các bậc đào tạo với phương pháp đào tạo thực tế, dễ hiểu, sinh động nhằm tạo ý thức tôn trọng pháp luật cho mỗi công dân từ trong ghế nhà trường. Nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, của công chức, viên chức nhà nước và các tổ chức, cá nhân khác nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, dứt điểm và triệt để những hành vi vi phạm. Quy định trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan nhà nước, tổ chức và doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật, kiên quyết loại bỏ sự tồn tại của các hình thức tham nhũng, tiêu cực khi xử lý vi phạm pháp luật. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế bảo hiến một cách thực chất.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người, quyền công dân.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó, gắn giáo dục quyền con người với giáo dục pháp luật nói chung trong toàn xã hội và trong nhà trường; thực hiện tốt và hiệu quả Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” (theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ), Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam (theo Quyết định số 1079/QĐ-TTg ngày 14/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ) và Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày 26/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc.
Từng bước chuyển dần cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật từ mô hình nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật về quyền con người, quyền công dân đến với người dân sang mô hình người dân tự tìm hiểu pháp luật về quyền con người, quyền công dân là chính; thực hiện trợ giúp pháp lý về quyền con người cho những người thuộc diện chính sách theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Phát huy vai trò của thiết chế truyền thông, báo chí để đa dạng hóa các hình thức truyền thông, tạo thuận lợi tối đa cho người dân tiếp cận pháp luật.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về quan điểm phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và của từng cơ quan. Tăng ngân sách hằng năm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, tiếp tục đấu tranh, phê phán những quan điểm, luận điệu sai trái về quyền con người, quyền công dân của các thế lực thù địch.
Quan tâm xây dựng củng cố, tăng cường đội ngũ, nhân lực giáo dục quyền con người, quyền công dân có đủ số lượng và bảo đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục quyền con người, quyền công dân.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, trong đó có các quy định về quyền con người, quyền công dân. Một số vấn đề cần quan tâm như: Bổ sung nội dung quy định của nguyên tắc chung về hạn chế quyền con người, quyền công dân; ghi nhận đầy đủ nội hàm quyền riêng tư; mở rộng quyền về bình đẳng giới theo hướng tiếp nhận các yếu tố về xu hướng tính dục và bản dạng giới...[12]. Về kỹ thuật lập pháp, cần tiếp tục điều chỉnh các cụm từ hiện còn “theo quy định của pháp luật” thành “theo luật định” hoặc “do luật định” trong Hiến pháp năm 2013 nhằm giảm thiểu nguy cơ tùy tiện hạn chế và vi phạm các quyền hiến định của các cơ quan nhà nước. Ở đây, việc cụ thể hóa bằng luật không có nghĩa là mọi vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền đó đều cần được quy định trong luật, mà chỉ cần quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, có thể trong một đạo luật riêng hoặc một đạo luật có liên quan[13]. Bên cạnh đó, theo tác giả cần nghiên cứu, cân nhắc thiết kế nhóm quyền riêng cho nhóm đối tượng người yếu thế trong Chương II Hiến pháp năm 2013. Đây là xu hướng phát triển liên quan đến việc hiến định quyền con người, quyền công dân trên thế giới hiện nay./.
TS. Trương Hồng Quang
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
[1] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Hồng Thơm và Vũ Công Giao: Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Sách tham khảo, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 24.
[2] Người đồng tính là người có tình cảm, cảm xúc với người có cùng giới tính sinh học với mình. Đồng tính không phải là một giới tính mà là một xu hướng tính dục (là một trong bốn yếu tố tạo nên tính dục, chỉ việc chịu sự hấp dẫn (có tính bền vững) về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về tình dục của một người đối với đối tượng thuộc giới nào đó). APA: Definition of Terms: Sex, Gender, Gender Identity, Sexual Orientation, 2011, http://onlineresourcesalex.weebly.com/uploads/1/7/2/9/17295132/gender_vs._sex.pdf.
[3] Người song tính là người có tình cảm, cảm xúc với cả người có cùng/khác giới tính sinh học với mình. Tương tự như đồng tính, song tính cũng là một xu hướng tính dục và không phải là một giới tính.
[4] Người chuyển giới là người cảm nhận, mong muốn mình có giới tính sinh học khác giới với giới tính sinh học khi sinh ra. Nôm na là giới tính mong muốn của người đó không khớp với giới tính sinh học. Người chuyển giới liên quan đến khái niệm bản dạng giới (việc một người tự nhận mình mang một giới tính nào, có thể giống hoặc khác với giới tính sinh học khi được sinh ra). APA: Guidelines for Psychological Practice with Lesbian, Gay, and Bisexual Clients, Vol. 67, No. 1, 2012, p. 10-42, nguồn: https://www.apa.org/pubs/journals/features/amp-a0024659.pdf.
[5] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đỗ Hồng Thơm và Vũ Công Giao: Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, sđd.
[6] Chỉ việc một người có tình cảm, yêu người cùng giới tính, khác giới tính với mình hay với cả hai giới tính.
[7] Chỉ việc một người tự nhận mình mang giới tính giống hoặc khác với giới tính sinh học khi sinh ra.
[8] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007…
[9] https://baochinhphu.vn/viet-nam-gia-nhap-25-cong-uoc-cua-to-chuc-lao-dong-quoc-te-102293066.htm, truy cập ngày 20/01/2023.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 71.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, sđd, tr. 76.
[12] Xem thêm: Trương Hồng Quang (2013), “Hoàn thiện quy định về quyền con người, quyền công dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5), tr. 31 - 37.
[13] Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 - Quan điểm mới, cách tiếp cận mới và các quy định mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 58 - 59.