1. Quyền được trợ giúp pháp lý cho người cao tuổi
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý (TGPL), quyền được trợ giúp của người cao tuổi theo từng giai đoạn là khác nhau, cụ thể như sau: Giai đoạn trước khi có Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, diện người được TGPL được quy định tại Thông tư liên tịch số 52/TTLT/TP-TC-TCCP-LĐTBXH ngày 14/01/1998 của Bộ Tư pháp - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, theo đó, những đối tượng sau đây được hưởng TGPL miễn phí: Người nghèo và các đối tượng chính sách như: Người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh, hải đảo; các đối tượng được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 13, các điểm a, b khoản 1 Điều 26, các điểm a, c khoản 1 Điều 31 Nghị định số 70-CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án. Như vậy, giai đoạn này, người cao tuổi chưa được quy định là diện người được TGPL riêng, tuy nhiên, nếu người cao tuổi thuộc các trường hợp được TGPL nêu trên thì sẽ được hưởng dịch vụ TGPL miễn phí.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, quy định nhiều vấn đề về tổ chức và hoạt động TGPL, trong đó có người được TGPL. Điều 10 của Luật này quy định những người được TGPL bao gồm: Người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 07/2007/NĐ-CP) hướng dẫn người già được TGPL quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không có nơi nương tựa. Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP (Nghị định số 14/2013/NĐ-CP) quy định: Người già được TGPL quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý là người từ đủ 60 tuổi trở lên, sống cô đơn, không có nơi nương tựa.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì: Người cao tuổi có khó khăn về tài chính thuộc diện người được TGPL. Theo Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 144/2017/NĐ-CP) thì điều kiện khó khăn về tài chính của người được TGPL là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật. Như vậy, người cao tuổi thuộc hộ cận nghèo hoặc là người cao tuổi đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng thì được TGPL miễn phí. Bên cạnh đó, người cao tuổi cũng được hưởng TGPL khi thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 như người cao tuổi thuộc hộ nghèo, người cao tuổi là người có công với cách mạng, người cao tuổi là người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người cao tuổi là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Ngày 21/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2156/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021 - 2030, trong đó bảo đảm quyền TGPL cho người cao tuổi là một trong những mục tiêu quan trọng, với mục tiêu ít nhất 80% người cao tuổi có khó khăn về tài chính, bị bạo lực, bạo hành được cung cấp dịch vụ TGPL theo quy định của pháp luật TGPL khi có nhu cầu giai đoạn 2022 - 2025 và ít nhất 90% người cao tuổi có khó khăn về tài chính, bị bạo lực, bạo hành được cung cấp dịch vụ TGPL theo quy định của pháp luật TGPL khi có nhu cầu giai đoạn 2026 - 2030. Nhằm triển khai hiệu quả Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021 - 2030, ngày 10/6/2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1334/QĐ-BTP về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý đối với người cao tuổi, người cao tuổi có khó khăn về tài chính giai đoạn 2022 - 2030 (Quyết định số 1334/QĐ-BTP). Theo đó, tính đến nay, hầu hết các địa phương đều đã ban hành văn bản triển khai thực hiện chính sách TGPL cho người cao tuổi, người cao tuổi có khó khăn về tài chính giai đoạn 2022 - 2030.
2. Một số kết quả đạt được sau 14 năm triển khai thi hành Luật Người cao tuổi năm 2009 trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Một là, tổ chức, người thực hiện TGPL cho người cao tuổi thuộc diện được TGPL được tăng cường.
Tại Điều 10 và Điều 11 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã quy định tổ chức thực hiện TGPL cho người được TGPL, trong đó có người cao tuổi thuộc diện được TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia TGPL gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL với Sở Tư pháp. Các tổ chức tham gia TGPL có thể là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đủ điều kiện theo quy định của Luật Trợ giúp pháp năm 2017 ký hợp đồng thực hiện TGPL hoặc đăng ký tham gia TGPL với Sở Tư pháp.
Tại Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định người thực hiện TGPL cho người được TGPL, trong đó có người cao tuổi thuộc diện được TGPL bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý (viên chức thực hiện TGPL chuyên nghiệp thuộc số lượng người làm việc của trung tâm TGPL nhà nước); luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với trung tâm TGPL nhà nước; luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; cộng tác viên TGPL.
Đến nay, hệ thống tổ chức thực hiện TGPL được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện TGPL ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp. Hiện nay, ở trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về TGPL. Ở địa phương, Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về TGPL tại địa phương. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Đến hết năm 2023, theo tổng hợp báo cáo thống kê từ các địa phương, trên cả nước có 63 trung tâm TGPL nhà nước, 97 chi nhánh, với tổng số 1.228 viên chức, người lao động, trong đó có 676 trợ giúp viên pháp lý; bên cạnh đó, còn có 26 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL; 174 tổ chức đăng ký tham gia TGPL; 32 cộng tác viên ký hợp đồng, 643 luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL[1]. Có thể nói, mặc dù số lượng người làm việc tại các trung tâm TGPL nhà nước trên toàn quốc thời gian qua không tăng nhưng chất lượng nguồn nhân lực thực hiện TGPL tăng lên đáng kể. Tỷ lệ số lượng trợ giúp viên pháp lý trên tổng số người làm việc tại trung tâm TGPL nhà nước từng bước được nâng lên, số lượng người làm chuyên môn (trợ giúp viên pháp lý và chuyên viên pháp lý) và tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý nâng cao hơn so với thời điểm triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Hiện nay, các trợ giúp viên pháp lý đều đã đáp ứng các yêu cầu của đào tạo nghề, hạng chức danh như phải trải qua lớp đào tạo nghề, tập sự và đạt kết quả tại kỳ kiểm tra hết tập sự do Bộ Tư pháp tổ chức mới được bổ nhiệm chức danh và hành nghề. Đến nay, trợ giúp viên pháp lý đã trở thành đội ngũ nòng cốt trong việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu TGPL và số lượng vụ việc tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý tăng hằng năm[2].
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL trên toàn quốc nhằm đáp ứng yêu cầu TGPL ngày càng cao của người dân, hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện TGPL, trong đó, tập trung vào các kỹ năng tham gia tố tụng hình sự, dân sự, hành chính và các kỹ năng thực hiện TGPL cho các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, trong đó có người cao tuổi thuộc diện được TGPL. Ở địa phương, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực hiện TGPL cho người thực hiện TGPL của địa phương. 100% trợ giúp viên pháp lý hoàn thành nghĩa vụ tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc theo quy định.
Hai là, kết quả thực hiện TGPL cho người cao tuổi thuộc diện được TGPL.
Kết quả thực hiện TGPL cho người cao tuổi thuộc diện được TGPL trong 14 năm qua có thể chia thành các giai đoạn tương ứng với thể chế quy định diện người cao tuổi được TGPL, cụ thể như sau: Từ giai đoạn năm 2010 (kể từ khi Luật Người cao tuổi năm 2009 có hiệu lực) đến hết năm 2023, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc có hơn 18 nghìn lượt người cao tuổi thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL miễn phí[3], trong đó:
- Trước khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong giai đoạn từ năm 2010 - 2017, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã TGPL cho hơn 10 nghìn lượt người cao tuổi thuộc diện được TGPL theo quy định Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP, Nghị định số 14/2013/NĐ-CP.
- Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến nay, trong giai đoạn năm 2018 đến hết năm 2023, khoảng hơn 08 nghìn lượt người cao tuổi có khó khăn về tài chính được TGPL. Sau khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được ban hành và định hướng về tập trung thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các trung tâm TGPL đã đẩy mạnh hoạt động thực hiện vụ việc TGPL, nhất là tham gia tố tụng. Số liệu trên là số liệu TGPL cho người cao tuổi có khó khăn về tài chính, số liệu này mới chỉ phản ánh một phần số lượng vụ việc TGPL cho người cao tuổi. Bởi vì, ngoài trường hợp người cao tuổi có khó khăn về tài chính thì người cao tuổi cũng đồng thời thuộc các diện TGPL khác và được thống kê ở diện TGPL khác, ví dụ như người cao tuổi hộ nghèo hoặc người cao tuổi là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người cao tuổi là người có công với cách mạng, người cao tuổi là người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo...
Chất lượng vụ việc TGPL ngày càng được chú trọng. Qua báo cáo của các địa phương và qua theo dõi việc thực hiện các vụ việc TGPL có thể thấy[4], trong thời gian qua, hầu hết, các vụ việc TGPL (trong đó có vụ việc TGPL cho người cao tuổi thuộc đối tượng được TGPL) được đánh giá là đạt chất lượng trở lên, không có vụ việc nào bị khiếu kiện về chất lượng vụ việc TGPL. Trong đó, có những vụ việc người cao tuổi thuộc diện được TGPL được bào chữa vô tội, được giảm hình phạt, được chuyển tội danh nhẹ hơn, tăng mức bồi thường thiệt hại… trong các vụ án hình sự hoặc thắng kiện, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án dân sự và hành chính.
Với những kết quả thực hiện TGPL trong từng vụ việc cụ thể, có thể khẳng định, công tác TGPL đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các chính sách an sinh của Nhà nước đối với các đối tượng yếu thế, trong đó có người cao tuổi thuộc diện được TGPL; hoạt động TGPL đã kịp thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi có khó khăn về tài chính nói riêng và người cao tuổi thuộc đối tượng được TGPL nói chung khi họ có vướng mắc về pháp luật, tạo niềm tin vào công lý của người dân với Đảng và Nhà nước. Qua công tác TGPL đã góp phần nâng cao nhận thức, sự quan tâm và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với nhóm người dễ bị tổn thương này.
Ba là, kết quả hoạt động phối hợp TGPL cho người cao tuổi.
Trong thời gian gần đây, việc phối hợp TGPL nói chung, đặc biệt là phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng có nhiều chuyển biến tích cực. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các trung tâm TGPL nhà nước ngày càng được củng cố, giúp người thuộc diện TGPL, trong đó có người cao tuổi gặp khó khăn về tài chính sớm tiếp cận với thông tin về quyền được TGPL và thụ hưởng khi có nhu cầu. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng việc giải thích, thông tin, thông báo và tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng và các văn bản pháp luật có liên quan. Ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện TGPL trực tại Tòa án (Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC). Ngày 27/11/2023, Bộ Tư pháp và Bộ Công an đã ký kết Chương trình phối hợp trực TGPL trong điều tra hình sự (Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA). Việc ký kết các Chương trình phối hợp trực TGPL tại Tòa án nhân dân, tại cơ quan điều tra hình sự đã thể hiện sự phối hợp ngày càng chặt chẽ, thiết thực của các bộ, ngành trong việc tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người được TGPL sớm tiếp cận thông tin TGPL, hướng tới việc lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, trong đó có người cao tuổi thuộc diện được TGPL làm trung tâm.
Bên cạnh mối quan hệ phối hợp về TGPL trong tố tụng, các Sở Tư pháp/trung tâm TGPL nhà nước còn tích cực phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương trong việc huy động luật sư có kinh nghiệm, uy tín tham gia TGPL và các cơ quan, tổ chức như: Hội Người cao tuổi, Hội Nông dân, Hội Luật gia, Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... trong việc truyền thông về TGPL và giới thiệu hội viên có nhu cầu TGPL đến trung tâm TGPL nhà nước. Để thực hiện quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động TGPL; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL (Thông tư số 03/2021/TT-BTP)[5][5], nhiều địa phương (Sở Tư pháp/trung tâm TGPL) đã ban hành công văn, văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị phối hợp triển khai thực hiện trách nhiệm thông tin, giới thiệu về TGPL và nhiều địa phương đã triển khai có kết quả nội dung này.
Bốn là, kết quả hoạt động truyền thông về quyền TGPL cho người cao tuổi.
Truyền thông về TGPL luôn giữ vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin về TGPL đến với người dân nói chung và người được TGPL nói riêng, trong đó có người cao tuổi, giúp người dân tiếp cận thông tin TGPL kịp thời, hiệu quả. Trong thời gian qua, thông qua các phương thức truyền thông về TGPL khác nhau, các cơ quan, tổ chức và người dân, trong đó có người cao tuổi hiểu biết hơn về quyền được TGPL của mình và cách thức để tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho đối tượng “yếu thế” này.
Ở trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp tăng cường truyền thông về quyền TGPL cho người dân nói chung, trong đó có người cao tuổi có khó khăn về tài chính, tiếp tục được chú trọng và đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng như: Phát sóng thông điệp, tiểu phẩm về TGPL trên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV); phối hợp xây dựng, phát sóng phóng sự, phim diễn án TGPL trên chuyên mục Quốc hội với cử tri, các kênh truyền hình (VTV1, VTV2, VTV5, VTV8, Vnews,…); tổ chức các đợt truyền thông điểm về TGPL cho người dân, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng... Các hoạt động truyền thông về TGPL này đã thu hút được sự quan tâm, phản hồi tích cực từ phía người dân và các cơ quan chức năng. Ngoài ra, Trang thông tin điện tử TGPL Vệt Nam (https://tgpl.moj.gov.vn) liên tục cập nhật thông tin về tổ chức và hoạt động TGPL trên phạm vi cả nước, danh sách, địa chỉ các trung tâm TGPL và trợ giúp viên pháp lý trong cả nước để người dân biết và lựa chọn. Đến nay, đã có hàng trăm nghìn lượt truy cập Trang thông tin điện tử TGPL Việt Nam.
Tại địa phương, trung tâm TGPL nhà nước các tỉnh, thành phố đã tổ chức nhiều hình thức truyền thông về quyền được TGPL cho người cao tuổi có khó khăn về tài chính như: Thông qua các đợt truyền thông về TGPL tại cơ cở, phối hợp với Đài phát thanh, truyền hình, báo chí, phát tờ gấp pháp luật về TGPL… để tuyên truyền về hoạt động TGPL, trong đó có quyền được TGPL cho người cao tuổi có khó khăn về tài chính. Ngoài ra, các địa phương cũng đã lắp đặt bảng thông tin, hộp tin TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng, trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, trụ sở Nhà văn hóa... để người cao tuổi có khó khăn về tài chính có thể tiếp cận được quyền được TGPL của mình.
Có thể nói rằng, để đạt được những kết quả như trên, công tác TGPL cho người cao tuổi có khó khăn về tài chính đã được hệ thống tổ chức TGPL từ trung ương đến địa phương, các cơ quan có liên quan, đặc biệt là cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm, triển khai thực hiện. Nhận thức của các cơ quan, ban, ngành, nhất là Sở Tư pháp đối với công tác TGPL cho người cao tuổi được nâng cao, các địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch hiệu quả. Quan hệ phối hợp công tác giữa các tổ chức thực hiện TGPL ở địa phương và các cấp Hội Người cao tuổi tiếp tục được tăng cường và phát huy hiệu quả trên nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi để cùng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật. Người cao tuổi, trong đó, người cao tuổi có khó khăn về tài chính ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TGPL cho người cao tuổi vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định, có thể kể đến như: Truyền thông TGPL cho người dân nói chung và người cao tuổi ở các địa phương chưa đồng đều; vẫn còn trường hợp người dân, đặc biệt là người cao tuổi chưa biết đến quyền được TGPL miễn phí khi có vướng mắc pháp luật. Vẫn còn thực tế là một số người thực hiện TGPL chưa có nhiều kỹ năng và kinh nghiệm về giải quyết các vụ việc TGPL liên quan đến người cao tuổi. Mặc dù có sự quan tâm, phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, song một số cấp Hội Người cao tuổi chưa thật sự chủ động đổi mới phương thức hoạt động, đề xuất, kiến nghị các biện pháp, chính sách hỗ trợ cho hoạt động TGPL của hội viên nên chưa phát huy tối đa vai trò là cầu nối giữa các tổ chức thực hiện TGPL với người cao tuổi thuộc đối tượng được TGPL…
3. Một số đề xuất, kiến nghị trong thời gian tới
Thứ nhất, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Luật Người cao tuổi năm 2009 theo hướng bổ sung quyền TGPL cho người cao tuổi theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định số 1334/QĐ-BTP, chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện TGPL cho người cao tuổi.
Thứ ba, có các giải pháp nâng cao vai trò, năng lực, tính chuyên nghiệp và chất lượng hệ thống TGPL để người dân dễ tiếp cận pháp luật, ví dụ như tăng cường tập huấn nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người thực hiện TGPL khi thực hiện TGPL cho những đối tượng đặc thù, trong đó có người cao tuổi thuộc đối tượng được TGPL…
Bốn là, tiếp tục tập trung thực hiện vụ việc TGPL cho người được TGPL trong tố tụng, trong đó có người cao tuổi có khó khăn về tài chính và người cao tuổi thuộc diện được TGPL khác.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về hoạt động TGPL, về quyền được TGPL trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ TGPL cho người được TGPL, trong đó có người cao tuổi có khó khăn về tài chính.
Sáu là, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng với chính quyền cơ sở, các hội của người cao tuổi trong việc giới thiệu nhu cầu TGPL. Triển khai hiệu quả cơ chế người thực hiện TGPL trực ở trụ sở hoặc trực qua điện thoại tại Tòa án nhân dân, cơ quan điều tra, nhà tạm giam, tạm giữ... giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận sớm với TGPL.
Bảy là, có các giải pháp hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống TGPL; quan tâm bố trí kịp thời kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất cho trung tâm TGPL nhà nước để đáp ứng nhu cầu TGPL trên địa bàn cũng như triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, đề án về TGPL hoặc có nội dung về TGPL./.
ThS. Trịnh Thị Thanh
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
[1] Các số liệu thống kê này được lấy từ Tài liệu Hội nghị triển khai công tác trợ giúp pháp lý năm 2024 của Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp.
[2] Trích bài viết: Nghiên cứu triển khai nhiệm vụ, giải pháp TGPL trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, tác giả Trịnh Thị Thanh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 9/2023.
[3] Nguồn: Thống kê lượt người TGPL từ Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp từ 2010 - 2023.
[4] Nguồn: Từ báo cáo công tác TGPL của các trung tâm TGPL trên toàn quốc và của Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2010 - 2023.
[5] Quy định tại khoản 12 Điều 2 Thông tư số 03/2021/TT-BTP về trách nhiệm thông tin, giới thiệu về TGPL của Phòng Tư pháp và Uỷ ban nhân dân cấp xã.