1. Cơ sở pháp lý và một số vướng mắc từ thực tiễn
Việc xác định tư cách người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật có liên quan. Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về hủy hoại rừng thì việc xác định ai là chủ rừng (người bị hại) và ai là nguyên đơn dân sự có ý nghĩa rất quan trọng cho việc ra quyết định thi hành án dân sự, ra quyết định thi hành án như thế nào và ra quyết định từ thời điểm nào. Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”; Điều 63 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị hại còn có thêm một số quyền mà nguyên đơn dân sự không có như quyền được tham gia tố tụng ngay cả trong trường hợp không có yêu cầu, quyền trình bày buộc tội tại phiên tòa, quyền đề nghị hình phạt, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án để đề nghị tăng hoặc giảm hình phạt còn nguyên đơn dân sự chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra không có quyền kháng cáo về hình phạt. Thực tiễn xét xử, đa số các Tòa án địa phương đều xác định chủ thể tham gia tố tụng trong các vụ án về rừng thường theo loại rừng và việc phân cấp quản lý. Nhìn chung, đa phần các cơ quan tiến hành tố tụng đều xác định chính xác về tư cách tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, có một số nơi vẫn còn có sự chồng chéo về phân cấp quản lý, đơn vị quản lý, người có trách nhiệm quản lý.
Liên quan đến việc ra quyết định thi hành án, Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự hiện hành) quy định: “1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này... 2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau:... c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước...”. Điểm 3 khoản 4 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) quy định: “Các khoản thu khác cho Nhà nước thuộc diện cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự bao gồm: Khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước; khoản bồi thường cho Nhà nước, cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; khoản thu nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước”.
Dưới đây, tác giả xin nêu một số vụ án cụ thể phát sinh từ thực tiễn để thấy rõ những vướng mắc, bất cập liên quan đến việc ra quyết định thi hành án chủ động và thi hành án theo đơn yêu cầu:
Vụ án thứ nhất: Tháng 12/2015, Phan Bích H thuê ba người đàn ông nói giọng miền Bắc (không rõ họ, chỉ biết một người tên D) phát và đốt 8.245m2 đất rừng, loại đất rừng phòng hộ tại khu vực rừng Dương Dài thuộc xã M, huyện N, tỉnh Q để lấy đất trồng keo lá tràm với giá 4.700.000 đồng. Đến tháng 6/2016, khi H thuê anh Ngô Phi C và chị Huỳnh Thị B trồng keo lá tràm thì bị Hạt kiểm lâm huyện N phát hiện lập biên bản. Qua kiểm đếm, trên diện tích đất rừng có 375 cây thân gỗ bị chặt hạ. Tổng khối lượng gỗ bị thiệt hại là 17,682m3, bao gồm các cây thuộc nhóm IV đến nhóm VIII. Tổng giá trị bị thiệt hại theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 87.808.000 đồng. Tòa án nhân dân huyện N đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Phan Bích H 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng. Về dân sự: Bị cáo phải “bồi thường cho Ủy ban nhân dân xã M” số tiền 87.808.000 đồng, bị cáo đã bồi thường được 15.000.000 đồng, còn lại phải tiếp tục bồi thường 72.808.000 đồng. Trong vụ án này, Tòa án xác định nguyên đơn dân sự là Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, tỉnh Q.
Vụ án thứ hai: Cuối năm 2019, Ngô Thị T đến khu vực Hòn Dung thuộc khoảnh 2, tiểu khu 456 thôn G, xã M, huyện N, tỉnh Q thuê bốn người (không rõ họ tên, chỉ biết quê ở tỉnh Đ) phát dọn 11.400m2 đất rừng sản xuất để trồng cây keo lá tràm. Số lượng cây gỗ bị chặt hạ là 280 cây với trữ lượng 15.972m3. Tổng giá trị bị thiệt hại theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 53.116.305 đồng. Tòa án nhân dân huyện N đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Ngô Thị T 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng. Về dân sự: Bị cáo phải “bồi thường cho Nhà nước” số tiền 53.116.305 đồng, bị cáo đã bồi thường được 5.000.000 đồng, còn lại phải tiếp tục bồi thường là 48.116.305 đồng. Trong vụ án này, Tòa án xác định nguyên đơn dân sự là Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, tỉnh Q.
Đối với vụ án thứ nhất, Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Q ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, bởi: Mặc dù Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2015) nhưng Chi cục Thi hành án dân sự huyện N vẫn xác định đây là trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu vì chưa có hướng dẫn cụ thể và vì nguyên đơn dân sự trong vụ án này được Tòa án nhân dân huyện N xác định là Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, tỉnh Q. Việc bồi thường này là để Ủy ban nhân dân xã M (chủ rừng) thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục hậu quả do hành vi hủy hoại rừng gây nên. Tuy nhiên, việc xác định loại việc thuộc trường hợp thi hành án chủ động hay thi hành án theo đơn yêu cầu có ý nghĩa rất quan trọng trong khâu thi hành án dân sự. Việc thi hành án theo đơn yêu cầu được tiến hành theo trình tự, thủ tục riêng và bắt buộc phải có đơn yêu cầu thi hành án, trong đó có việc “thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có” theo điểm đ khoản 2 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự hiện hành. Do đó, trường hợp này bắt buộc Ủy ban nhân dân xã M phải có đơn yêu cầu thi hành án và đơn phải còn trong thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Đối với vụ án thứ hai, hiện nay có 02 quan điểm khác nhau: (i) Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong trường hợp này bản án xác định nguyên đơn dân sự vẫn là Ủy ban nhân dân xã M, huyện N nên vẫn thuộc trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu như đã nêu trên. (ii) Quan điểm thứ hai cho rằng, trường hợp này thuộc loại thi hành án dân sự chủ động, bởi: Nhà nước là một chủ thể đặc biệt, Ủy ban nhân dân là cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp xã được phân cấp quản lý rừng tại địa phương nên Ủy ban nhân dân xã là chủ rừng, là bị hại trực tiếp trong các vụ án hủy hoại rừng, có trách nhiệm yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, xử lý nghiêm người vi phạm và được bồi thường theo quy định. Do vậy, khi bản án đã có hiệu lực pháp luật thì cơ quan thi hành án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án theo như hướng dẫn tại Nghị định số 33/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP lại có quy định: “… trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng” (điểm 3 khoản 4 Điều 1). Theo đó, trường hợp này lại không thuộc khoản bồi thường cho Nhà nước, bởi tội hủy hoại rừng thuộc Chương XIX các tội phạm về môi trường chứ không thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng!
2. Kiến nghị, đề xuất
Để áp dụng pháp luật được thống nhất, mang tính toàn diện, tạo sự công bằng và đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quá trình thi hành án dân sự thì cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản thi hành theo hướng:
- Hoàn thiện thể chế pháp luật theo hướng hiện đại, cụ thể hóa bằng điều luật để tiến hành thực hiện một cách thống nhất trong phạm vi toàn quốc nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
- Hoàn thiện quy định và thực hiện thống nhất về tên gọi, cách ghi trong bản án hình sự về tên gọi, tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể, người tham gia tố tụng (như là Ủy ban nhân dân xã A hay cơ quan nhà nước). Cần quy định rõ là bồi thường cho Ủy ban nhân dân xã hay bồi thường cho Nhà nước. Theo chúng tôi, cần ghi rõ là bồi thường cho Ủy ban nhân dân xã để dễ thực hiện và đúng với bản chất của vấn đề.
- Theo chúng tôi, trường hợp này là bồi thường cho Nhà nước và Nhà nước được xác định cụ thể là Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, tỉnh Q ở các bản án nêu trên. Trường hợp này được xác định là thi hành án chủ động chứ không phải là thi hành án theo đơn yêu cầu. Do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự hiện hành theo hướng: Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; “khoản bồi thường cho Nhà nước” và các khoản thu khác cho Nhà nước. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi cho Nhà nước và người được thi hành án, cần sửa đổi, bổ sung điểm 3 khoản 4 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP theo hướng “… trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, tham nhũng”.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
Võ Văn Thể
Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam