Luật sư trả lời:
Theo Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thì vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 2).
Cũng theo Điều 37 Nghị định này quy định về các trường hợp không được lập vi bằng trong đó không được lập vi bằng để “ghi nhận sự kiện, hành vi để chuyển quyền sử dụng, quyền sở hữu đất đai, tài sản không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu theo quy định của pháp luật” (khoản 5).
Có thể thấy về giá trị pháp lý, vi bằng không thay thế văn bản công chứng, chứng thực. Vi bằng chỉ là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật, là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực (trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này).
Như vậy, theo các quy định trên thì việc mua bán/chuyển nhượng nhà đất thông qua hình thức lập vi bằng không được pháp luật thừa nhận, người mua nhà đất thông qua hình thức này sẽ gặp nhiều rủi ro và nguy cơ bị thiệt hại là rất lớn. Việc mua bán nhà đất cần phải có đủ các điều kiện pháp lý để được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, các bên có thể lập vi bằng liên quan đến quá trình mua bán nhà đất để hạn chế các rủi ro, tranh chấp như: (i) Lập vi bằng ghi nhận việc đặt cọc; giao nhận tiền, giấy tờ; (ii) Lập vi bằng ghi nhận hiện trạng nhà đất khi mua bán, khi bàn giao...
Luật sư Phạm Thị Thu
Công ty Luật Số 1 Hà Nội