Sau hơn 15 năm thực hiện, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Luật Cán bộ, công chức) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước các cấp, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hiệu quả. Việc thực hiện các quy định của Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành góp phần quan trọng thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Phân tích về sự cần thiết xây dựng Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi), Bộ Nội vụ đã phân tích các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn, trong đó nhấn mạnh, cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do vậy, yêu cầu và cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức cần được nghiên cứu, quy định phù hợp với thực tiễn quản lý trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở kết quả đánh giá, tổng kết việc thi hành Luật Cán bộ, công chức, nghiên cứu kỹ lưỡng các quan điểm, đường lối của Đảng, các định hướng lớn tại dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Bộ Nội vụ đề xuất 05 chính sách lớn sửa đổi, bổ sung Luật, như sau:
1. Chính sách 1 - Đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm
Khoản 3 Điều 7 Luật Cán bộ, công chức quy định: “vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Theo Bộ Nội vụ, việc xác định vị trí việc làm có ý nghĩa rất lớn, làm căn cứ để thực hiện công tác quản lý, tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và cải cách tiền lương. Tuy nhiên, đây là nội dung mới, phạm vi triển khai rộng, đối tượng đa dạng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Do đó, Bộ Nội vụ đề xuất giải pháp thực hiện như sau: (i) nghiên cứu, sửa đổi quy định về vị trí việc làm gắn với yêu cầu của ngành, lĩnh vực; từng bước bỏ quy định về ngạch và cơ cấu ngạch công chức; hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng và trả lương đối với cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; (ii) nghiên cứu, bổ sung quy định cho phép cơ quan nhà nước được ký hợp đồng lao động đối với một số vị trí việc làm thực thi, thừa hành do công chức đảm nhiệm để tạo sự linh hoạt trong sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt đối với cơ quan hành chính có nguồn thu theo quy định của pháp luật.
Khi giải pháp được thực hiện, việc thực hiện chủ trương phân cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức xác định vị trí việc làm và quyết định số lượng vị trí việc làm để thực hiện tái cơ cấu đội ngũ và tinh giản biên chế thể hiện tinh thần phân cấp, phân quyền mạnh mẽ. Chính phủ với tư cách cơ quan hành chính nhà nước cao nhất vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng vị trí việc làm thông qua thẩm quyền quy định phương pháp, nguyên tắc xác định vị trí việc làm. Điều này cũng giúp giảm đầu mối, tránh tình trạng “trăm hoa đua nở”, theo đó, các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào phương pháp, nguyên tắc đã được quy định để xác định cụ thể số lượng vị trí việc làm; giảm chi phí cho công tác xây dựng văn bản và trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
2. Chính sách 2 - Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của cán bộ, công chức và những việc cán bộ, công chức không được làm; đạo đức, văn hóa công vụ
Về Chính sách này, Bộ Nội vụ đề xuất giải pháp thực hiện như sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ, những việc không được làm của cán bộ, công chức, như: (i) quyền của cán bộ, công chức được khuyến khích, bảo vệ trong thực hiện nhiệm vụ; (ii) nghĩa vụ của cán bộ, công chức có trách nhiệm với công việc; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ; (iii) nghiêm cấm biểu hiện, hành vi né tránh, đùn đẩy, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ chức trách, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao mà không có lý do chính đáng; (iv) cơ chế loại trừ, miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm đối với cán bộ, công chức khi thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo; (v) chính sách tạo sức hấp dẫn và sự lôi cuốn nhằm tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để “giữ chân” những người có năng lực, trình độ cao và phẩm chất đạo đức tốt “an tâm” công tác.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện quy định về đạo đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức và những việc cán bộ, công chức không được làm. Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu, từ đó làm cơ sở cho việc sàng lọc, thay thế cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, năng lực hạn chế, uy tín thấp.
Thực hiện giải pháp nêu trên sẽ bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan; hạn chế được tình trạng tiêu cực trong công tác quy hoạch tại nhiều địa phương, đơn vị, đặc biệt là tình trạng cục bộ địa phương, bè phái trong công tác tổ chức cán bộ; chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động công vụ. Bên cạnh đó, tạo động lực, khích lệ ý chí phấn đấu, phát triển nghề nghiệp của mỗi công chức; góp phần phát huy phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tạo bước đột phá trong công tác cán bộ.
3. Chính sách 3 - Hoàn thiện các quy định để đổi mới phương thức quản lý cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng Chính phủ số, bảo đảm tăng tính hiện đại, công khai, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước
Để thực hiện chính sách này, Bộ Nội vụ đề xuất các giải pháp như sau:
Một là, hoàn thiện quy định về hồ sơ điện tử của cán bộ, công chức, trong đó bao gồm các thông tin liên quan từ khi được tuyển dụng đến khi không còn làm việc; quản lý, lưu trữ thông tin, dữ liệu về cán bộ, công chức; công bố, xuất bản các tài liệu, thông tin về cán bộ, công chức; quản lý lưu trữ thông tin, dữ liệu về cán bộ, công chức trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn.
Hai là, nghiên cứu, hoàn thiện chính sách của Nhà nước về cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức (trong tổng thể cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức); thu thập và quản lý tập trung, thống nhất thông tin cơ bản về cán bộ, công chức và tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan, tổ chức, đơn vị từ khi được tuyển dụng đến khi không còn làm việc; tích hợp, chia sẻ dữ liệu cán bộ, công chức, tổ chức bộ máy, biên chế, vị trí việc làm để tổng hợp, phân tích dữ liệu nhằm phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ quan nhà nước các cấp; khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ số, xã hội số, kinh tế số.
Ba là, vận hành, khai thác, quản lý, lưu trữ hồ sơ cán bộ, công chức trên môi trường điện tử (thay thế việc quản lý, lưu trữ hồ sơ giấy như hiện nay) để phục vụ công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan quản lý, tiến tới việc giám sát, kiểm tra “từ xa” của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, trường hợp phát hiện sai phạm, vi phạm có thể kiến nghị, đề xuất xử lý.
Chính sách này có nhiều tác động tích cực như bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan; hạn chế được tình trạng tiêu cực trong công tác cán bộ tại địa phương, đơn vị. Bên cạnh đó, tạo động lực, khích lệ ý chí phấn đấu, phát triển nghề nghiệp của mỗi công chức; góp phần phát huy phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tạo bước đột phá trong công tác cán bộ.
4. Chính sách 4 - Hoàn thiện các quy định về quản lý cán bộ, công chức bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định của Đảng và bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật; tiếp tục thể chế thành luật các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ mới ban hành chưa kịp thể chế
Chính sách được đề xuất nhằm thực hiện các mục tiêu: sửa đổi quy định về từ chức, miễn nhiệm đối với công chức quản lý, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định của Đảng tại Quy định số 41- QĐ/TW ngày 03/11/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; sửa đổi, bổ sung quy định về bố trí công tác đối với cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý sau khi bị kỷ luật; sửa đổi quy định về thời gian thi hành quyết định xử lý kỷ luật; sửa đổi quy định thẩm quyền quyết định biên chế công chức; sửa đổi quy định về khái niệm công chức để phù hợp Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
5. Chính sách 5 - Thống nhất nền công vụ từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chiếm số lượng khá lớn, nhưng cơ chế quản lý, chế độ chính sách, sự liên thông với đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp huyện trở lên còn nhiều tồn tại, bất cập. Việc bố trí số lượng, chức danh cán bộ, công chức ở mỗi xã, phường, thị trấn còn định tính, chưa hợp lý; công tác đào tạo còn hình thức, chưa gắn lĩnh vực được đào tạo với công việc hàng ngày, chất lượng phục vụ công việc còn nhiều hạn chế.
Chính vì vậy, Bộ Nội vụ đề xuất phương án bỏ quy định về cán bộ, công chức cấp xã; thống nhất nền công vụ từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Theo đó, giải pháp thực hiện cụ thể là: (i) bổ sung quy định nguyên tắc thực hiện thống nhất quản lý cán bộ, công chức trong cùng hệ thống theo chiều dọc và theo chiều ngang; quy định rõ điều kiện thực hiện và các điều khoản chuyển tiếp, theo đó, nghiên cứu, bỏ quy định về cán bộ, công chức cấp xã tại Chương V Luật Cán bộ, công chức và các quy định có liên quan; (ii) nghiên cứu, rà soát, bổ sung vị trí việc làm, chế độ chính sách (tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, thang bảng lương...) đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở đơn vị hành chính cấp xã.
Việc sửa đổi các quy định về cán bộ, công chức cấp xã như nêu trên sẽ tinh giản được một số lượng lớn công chức và những người làm việc không chuyên trách cấp xã. Do đó, sẽ tiết kiệm được các khoản tiền trả lương, phụ cấp được chi trả từ ngân sách nhà nước. Chính quyền cấp xã và những người làm việc không chuyên trách ở cấp xã tiếp xúc, làm việc trực tiếp với người dân nhiều nhất. Do đó, việc tinh giản biên chế gắn với nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng các vị trí việc làm, nâng cao thái độ phục vụ người dân sẽ mang lại nhiều tác động tích cực về mặt xã hội.
Có thể thấy, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này là cán bộ, công chức và những người làm việc kiêm nhiệm ở cấp xã. Nếu chính sách này được ban hành sẽ là cơ sở pháp lý và động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công việc của các cán bộ, công chức được tiếp tục công tác. Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách này cũng dẫn tới một bộ phận cán bộ, công chức, người làm việc kiêm nhiệm ở cấp xã bị tinh giản, mất việc làm. Tuy nhiên, chính sách được ban hành là nhằm các mục tiêu chung, lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Những người mất việc làm hoặc mất phụ cấp có thể được Nhà nước xem xét hỗ trợ những chế độ khác phù hợp.
Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) dự kiến được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội để đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội, dự kiến trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 11/2025) và thông qua tại Kỳ họp thứ 11 (tháng 4/2026). Thời gian Luật có hiệu lực dự kiến từ ngày 01/01/2027.
Uyên Nhi