Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Ngành Giáo dục cũng không ngừng đổi mới về phương thức đào tạo, mô hình đào tạo và nội dung đào tạo. Trong đó, đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã được áp dụng và mang lại hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện đại. Học chế tín chỉ được chính thức triển khai từ năm 2001 khi Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh học chế tín chỉ như là một giải pháp để đổi mới giáo dục đại học[1]. Tuy nhiên, khi các trường đại học có đào tạo ngành Luật “bắt tay” vào việc xây dựng hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ đã gặp rất nhiều khó khăn như: Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước còn thiếu, chưa đồng bộ; các chế độ, chính sách khuyến khích cho việc đào tạo tín chỉ còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; cơ sở vật chất chưa hiện đại, số lượng phòng học, giảng đường không đủ; đội ngũ giảng viên còn thiếu; những vấn đề lý luận về đào tạo theo học chế tín chỉ chưa được nhận thức đúng và thống nhất; bộ máy quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ ở các trường chưa được tổ chức khoa học, hợp lý… Do đó, đào tạo theo học chế tín chỉ được triển khai tại các trường đại học có đào tạo ngành Luật mới chỉ mang tính chất hình thức. Đó là sự kết hợp giữa đào tạo theo niên chế và đào tạo theo tín chỉ. Bản chất ưu việt của phương thức đào tạo theo tín chỉ vẫn chưa được phát huy.
1. Một số khái niệm về quản lý nhà nước về đào tạo theo học chế tín chỉ
Quản lý nhà nước là hình thức quản trị xã hội mang tính quyền lực nhà nước, thông qua sử dụng quyền lực nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người và duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Quản lý đào tạo là quá trình cơ sở đào tạo xây dựng mục tiêu, chương trình, kế hoạch đào tạo, tổ chức, chỉ đạo giảng viên và sinh viên thực hiện chương trình và kiểm tra đánh giá các kết quả học tập của sinh viên theo yêu cầu chuẩn mực đã được đề ra trong chương trình.
Quản lý đào tạo tín chỉ là quá trình mà các chủ thể quản lý xây dựng mục tiêu, kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá các kết quả của hoạt động đào tạo nhằm tạo ra mức độ mềm dẻo trong việc cho phép người học chọn tiến độ hoàn tất chương trình đào tạo theo khả năng để việc lựa chọn ngành học, môn học theo nguyện vọng của bản thân.
2. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về đào tạo theo học chế tín chỉ đối với các trường đại học có đào tạo ngành Luật
Hệ thống giáo dục đại học của nước ta hiện nay với hơn 255 trường đại học thì có hơn 55 trường đại học có đào tạo ngành Luật. Trong đó có 04 trường là: Trường Đại học Luật Hà Nội (tuyển sinh hàng năm khoảng 2.150 sinh viên); trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (tuyển sinh hàng năm khoảng 1.600 sinh viên); Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (tuyển sinh hàng năm khoảng 400 sinh viên); Học viện Tòa án (tuyển sinh hàng năm khoảng 320 sinh viên) là những trường chuyên đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội những cử nhân luật có chất lượng, ngoài ra có hơn 51 trường đại học khác đào tạo đa ngành, trong đó có từ 01 ngành Luật trở lên. Điều đó chứng tỏ hàng năm đã có số lượng sinh viên ngành Luật tốt nghiệp ra trường là không nhỏ. Trong đó, hầu hết các trường này đều đã chuyển từ đào tạo theo niên chế, sang đào tạo theo tín chỉ để nâng cao chất lượng đào tạo.
Giống như các trường đại học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, các trường đại học đào tạo ngành Luật cũng có những thuận lợi và khó khăn chung. Đối với các trường có đào tạo ngành Luật, đặc biệt là những trường chỉ đào tạo chuyên về ngành Luật như đã kể trên thì có những thuận lợi của riêng mình như được sự hỗ trợ rất lớn của cơ quan chủ quản về kinh phí, về các chính sách nhằm phát huy tối đa khả năng đào tạo của trường mình, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của các văn phòng luật sư (đa số do những cựu sinh viên của trường thành lập) là những nơi rất tốt để hỗ trợ thực hành luật cho sinh viên của các trường. Đồng thời, theo dự báo của thị trường lao động, nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực ngành Luật đang còn rất cao. Do đó, vấn đề tuyển sinh khối ngành Luật hiện nay ở các trường đại học có đào tạo ngành Luật đang thu hút nhiều hơn so với các khối ngành khác. Và quan trọng điểm chuẩn xét tuyển luôn ở mức cao nên nâng được chất lượng nguồn tuyển dẫn đến năng lực học tập của sinh viên luôn đạt kết quả cao. Ngoài những thuận lợi trên thì các trường này cũng có những khó khăn nhất định như số lượng giảng viên cơ hữu không đáp ứng được nhu cầu đào tạo theo tín chỉ, dẫn đến hiện tượng phải mời ngoài giảng viên làm cho không chủ động trong việc đăng ký lớp học tín chỉ. Ngoài ra, cơ sở vật chất, đặc biệt là phòng học của các trường còn thiếu nhiều…
Thời gian qua, quản lý nhà nước về đào tạo theo học chế tín chỉ đối với các trường đại học có đào tạo ngành Luật đã đạt được được nhiều kết quả, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy chế đào tạo tín chỉ và các hướng dẫn cụ thể, chương trình giáo dục bám sát chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo với các học phần tự chọn phát huy vai trò bổ sung kiến thức và đa dạng hoá chuyên ngành đào tạo cho người học; các văn bản hướng dẫn quy chế đào tạo đã được cụ thể hoá phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường, qua đó đã hỗ trợ tích cực cho việc triển khai tại đến các đơn vị, cán bộ, giảng viên, người học.
Trong số đó, hai văn bản có tính pháp lý cao và đang còn hiệu lực là Quy chế 25/2006/QĐ - BGD&ĐT ngày 26/6/2006 về đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy (Quy chế 25/2006/QĐ - BGD&ĐT) và Quy chế 43/2007/QĐ - BGD&ĐT ngày 15/8/2007 về đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Quy chế 43/2007/QĐ - BGD&ĐT). Ngoài ra, có Thông tư Số 57/2012/TT-BGDĐT ngày 27/12/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ - BGD&ĐT.
Giai đoạn trước phần lớn các trường lựa chọn Quy chế 25/2006/QĐ - BGD&ĐT theo học chế mềm dẻo kết hợp niên chế với tín chỉ (“tính tín chỉ” đạt khoảng70%). Qua một số năm, một số trường đã từng bước cắt giảm “đuôi niên chế” ở quy chế này để chuyển qua học chế tín chỉ - bước đi ban đầu của hệ tín chỉ. Số ít trường lựa chọn đi vào Quy chế 43/2007/QĐ - BGD&ĐT để bước ngay vào hệ tín chỉ. Khi thực hiện quy chế này, nội dung, chương trình đào tạo được đổi mới, phù hợp phương thức đào tạo theo tín chỉ. Chương trình giáo dục trình độ đại học theo hướng mềm dẻo, linh hoạt; tăng cường sự chủ động tích cực và phát huy năng lực của người học; đảm bảo sự liên thông giữa các chương trình; sự phát triển theo hướng chuyên sâu và sản phẩm đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội; phát huy những lợi thế cạnh tranh và thế mạnh truyền thống của các trường đào tạo khối ngành Luật.
Tuy nhiên, tình hình đào tạo ở các trường này có một số điểm yếu phổ biến là nhiều trường triển khai hệ tín chỉ kiểu nửa vời, không thấy được bước nào cần thực hiện trước, bước nào cần đi sau. Mới chỉ tiếp cận với hệ tín chỉ một cách hình thức, chưa tìm hiểu bản chất. Một số trường nhầm lẫn chỉ tập trung đổi mới phương pháp dạy - học mà không thấy được khâu then chốt của hệ tín chỉ là phải tạo dựng một quy trình và chương trình mềm dẻo.
Thứ hai, phương pháp giảng dạy được đổi mới theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập và tự nghiên cứu của người học với những điều kiện hỗ trợ học tập tốt và sự cố vấn chuyên nghiệp của giảng viên. Giảng viên được tạo điều kiện tăng cường nghiên cứu khoa học và thâm nhập thực tiễn; kỹ năng sống, kỹ năng mềm, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của người học đã được chú trọng nhiều hơn.
Thứ ba, hệ thống thư viện được mở rộng và bổ sung đáng kể đầu sách, các tư liệu phục vụ học tập, nghiên cứu; giảng đường được trang bị hệ thống máy chiếu; hệ thống thông tin phục vụ người học (website, thông tin học vụ…) được hết sức chú trọng, cập nhật thường xuyên, giúp người học nắm bắt thông tin học tập cũng như quyền và nghĩa vụ của người học.
Thứ tư, công tác đánh giá kết quả học tập được chú trọng. Các quy trình ra đề thi, chấm thi, phần mềm câu hỏi thi và xây dựng đề thi ngày càng đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ, xây dựng quy trình lấy ý kiến người học về chương trình đào tạo, giáo viên, cơ sở vật chất được chuẩn hoá.
Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực hiện vẫn đang bộc lộ những bất cập như sau:
Một là, một bộ phận cán bộ quản lý, giảng viên và đặc biệt người học chưa có nhận thức đầy đủ về đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Hai là, sự phân công trách nhiệm của các đơn vị theo mô hình quản lý mới khi chuyển sang đào tạo theo tín chỉ còn xảy ra tình trạng có bộ phận chưa bắt nhịp kịp với phương thức quản lý mới và chưa đổi mới thực sự về tư duy, còn mang theo “tư duy niên chế”.
Ba là, hệ thống các học phần tự chọn còn hạn chế cho nên chưa thực sự phát huy được vai trò đa dạng hoá định hướng nghề nghiệp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp trong tương lai cho người học.
Bốn là, phương pháp dạy và học của một bộ phận giảng viên và sinh viên chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Do phải lên lớp nhiều, một số giảng viên chưa dành được qũy thời gian thích đáng cho tư vấn, hướng dẫn sinh viên tự học ngoài giờ lên lớp. Một bộ phận sinh viên còn lúng túng trong tự học, tự nghiên cứu và còn thiếu chủ động, tự giác trong việc tiếp cận kiến thức, kỹ năng.
Năm là, đội ngũ cán bộ giảng dạy tuy được bổ sung hàng năm nhưng so với yêu cầu của đào tạo theo học chế tín chỉ vẫn còn thiếu nghiêm trọng ở một số môn học, đây được xem là một trong những khó khăn lớn nhất cần khắc phục.
Sáu là, những điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật đáp ứng đào tạo theo hệ thống tín chỉ chưa được hoàn chỉnh. Số lượng phòng học còn thiếu và cơ cấu diện tích chưa phù hợp cho đào tạo theo tín chỉ; thư viện chưa đáp ứng yêu cầu khi nhu cầu tự học tự nghiên cứu của sinh viên tăng lên…
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường đại học có đào tạo khối ngành Luật
Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý nhà nước, kiểm soát chặt chẽ việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh, tạo cơ sở pháp lý cho việc đào tạo theo học chế tín chỉ
Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần mang tính hệ thống, chiến lược phát triển lâu dài cho cả quá trình đào tạo tín chỉ. Có những chính sách về chế độ ưu đãi cho các cán bộ, giảng viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và hoạt động đào tạo tín chỉ nói riêng hợp lý. Các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là các thông tư hướng dẫn, quy chế phải được sớm hoàn thiện, đảm bảo về độ chính xác, chặt chẽ, tránh sự hiểu lầm, hiểu thiếu, hiểu sai văn bản của Bộ trong quá trình đào tạo của các trường đại học. Qua tình hình thực tế triển khai quy chế đào tạo, ngày 12/4/2019 Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn số 1554/BGDĐT-GDĐH đề nghị các cơ sở giáo dục đại học góp ý kiến cho 2 Quy chế: Quy chế 25/2006/QĐ - BGD&ĐT và Quy chế 43/2007/QĐ - BGD&ĐT về những hạn chế, bất cập, khó khăn; đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung, thêm mới khi soạn thảo quy chế đào tạo trình độ đại học hệ chính quy mới. Qua đó, các trường đại học có đào tạo khối ngành Luật cũng đã có những ý kiến đóng góp cho dự thảo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế này. Bên cạnh đó, các trường đại học có đào tạo khối ngành Luật cũng cần xây dựng một hệ thống văn bản riêng phù hợp với môi trường đào tạo của riêng mình, nhưng vẫn phải thống nhất và tuân thủ các văn bản chỉ đạo của trên.
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ. Cụ thể là:
- Đổi mới, thiết kế lại chương trình, đổi mới cách thức, biên soạn giáo trình và đề cương bài giảng theo hướng rút ngắn khung thời gian đào tạo để quá trình đào tạo trở nên hiệu quả hơn, kinh tế hơn. Cần xác định tổng số tín chỉ của một chương trình đào tạo phù hợp với đối tượng được đào tạo. Trong đó cần đa dạng hóa loại môn học gồm: môn chung; môn chuyên ngành; môn học bắt buộc; môn học tự chọn chính; môn học tự chọn tự do. Trong đó, cần tăng cường các môn học tự chọn nhằm tạo điều kiện cho sinh viên chọn lựa những môn học thực sự cần thiết cho công việc nghiên cứu của mình trong tương lai. Sau một thời gian vận hành chương trình đào tạo mới, cần bổ sung các môn học tự chọn mới và cũng phải kiên quyết loại bỏ những môn học mà sinh viên ít đăng ký học. Căn cứ vào khung chương trình ngành Luật của Bộ Giáo dục và Đào tạo và thực tiễn đào tạo của các trường có khối ngành Luật, các trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp. Tổng số tín chỉ đối với đào tạo cử nhân ngành Luật phải dự trên số tín chỉ tối thiểu của khung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tuy nhiên, các trường áp dụng có sự linh hoạt. Ví dụ, đối với chương trình các chuyên ngành Luật của trường Đại học Luật Hà Nội ban hành năm 2015 là 126 tín chỉ, còn khoa Luật, Đại học Quốc gia là 135 tín chỉ. Tuy nhiên, nếu nhìn vào chương trình đào tạo của các trường có đào tạo ngành Luật thì trong thời gian tới cần giảm bớt các môn học cơ sở, xa rời thực tiễn như những môn xã hội học đại cương, logic, dân số và phát triển, kinh tế lao động…, tăng những môn chuyên ngành, đặc biệt là các môn kỹ năng như: kỹ năng soạn thảo văn bản pháp luật; kỹ năng tư vấn pháp luật; kỹ năng áp dụng pháp luật về ưu đãi và trợ giúp xã hội; kỹ năng áp dụng pháp luật trong kinh doanh, thương mại; kỹ năng đàm phán và soạn thảo hợp đồng thương mại… để sau khi ra trường sinh viên có thể áp dụng ngay vào công việc mà không cần các đơn vị sử dụng lao động phải đào tạo lại.
- Đổi mới về cách thức, nội dung biên soạn giáo trình và đề cương bài giảng. Tất cả các học phần khi chuyển sang học chế tín chỉ đều giảm tải thời gian lên lớp từ 30 đến 50 % so với niên chế, nhưng không được cắt giảm nội dung cơ bản của chương trình, vì vậy, giảng viên cần chú trọng công tác biên soạn giáo trình, bài giảng phù hợp với thời lượng lên lớp như biên soạn được những bài tập nhận thức và bài tập nghiên cứu cho sinh viên. Chỉ khi biên soạn được các dạng bài tập này thì mới có thể hướng sinh viên tự học, tự nghiên cứu theo đúng nghĩa.
- Đổi mới phương pháp dạy học trên lớp. Trước hết, cần phải đổi mới trong tư duy nhận thức của giảng viên và sinh viên về phương pháp học và dạy theo mục đích: “Dạy để phát triển tư duy; dạy có tư duy; dạy về tư duy”. Do đó, quan trọng là dạy cho sinh viên cách lập kế hoạch học tập, cách học bài, cách đọc sách và ghi chép, cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
- Đảm bảo cơ sở vật chất đạt yêu cầu đào tạo theo tín chỉ. Trong đó, chú trọng xây dựng cơ sở vật chất về hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, thư viện, phòng đọc, thiết bị dạy học, phần mềm dạy học… đáp ứng được yêu cầu dạy học theo học chế tín chỉ; đảm bảo đầy đủ phòng học, hội trường, phòng thí nghiệm, phòng đọc ở thư viện để bố trí lớp học theo yêu cầu đăng ký của sinh viên và tạo điều kiện cho sinh viên tự học ngoài giờ lên lớp; đầu tư các phòng học đa năng: mỗi trường đại học phải được đầu tư xây dựng ít nhất là một phòng học đa năng để giảng viên và sinh viên có thể thực hiện hoạt động học tập của mình một cách hiệu quả nhất với sự hỗ trợ của các thiết bị, kỹ thuật dạy học hiện đại. Các thiết bị dạy học phải được xác định phù hợp với đặc trưng của từng trường và được đầu tư một cách đồng bộ.
Thứ ba, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong trường bởi đào tạo theo học chế tín chỉ không thể chỉ là của Ban Giám hiệu nhà trường mà nó là sự thống nhất, đoàn kết giữa các bộ phận trong trường. Xây dựng đội ngũ cố vấn học tập chuyên nghiệp, tận tình, chuyên sâu: Hàng năm, đầu khóa học mới, lãnh đạo các khoa, phòng cử ra một đội ngũ cố vấn mới để tư vấn cho những sinh viên đầu khóa học. Đồng thời, cần tuyển chọn giảng viên là những người có tâm huyết với khoa học, có trình độ và khả năng nghiên cứu khoa học và trình độ ngoại ngữ. Xây dựng chính sách ưu đãi chuyên gia giỏi. Đặc biệt coi trọng chính sách thu hút các chuyên gia hàng đầu, tạo sự chuyển biến mạnh về chất của đội ngũ giảng viên, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Cụ thể hóa các tiêu chuẩn tuyển dụng, đồng thời, có chính sách đề bạt hợp lý tạo điều kiện cho mọi cán bộ công chức phấn đấu và phát triển.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, giảng viên về đào tạo theo học chế tín chỉ
Tăng cường tập huấn đối với toàn thể giảng viên, cán bộ tham gia vào hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ để thống nhất về ý nghĩa, mục đích, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá, phương thức quản lý và trách nhiệm của mỗi người trong quy trình đào tạo theo học chế tín chỉ.
Thứ năm, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tăng cường những cuộc thanh tra đột xuất về việc thực hiện chỉ tiêu đào tạo, liên kết đào tạo, các điều kiện để đảm bảo cho hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ. Đồng thời, chú trọng thanh tra, kiểm tra tại kỳ thi tuyển sinh đại học, việc cấp phát văn bằng trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo theo học chế tín chỉ
Các trường cần đảm bảo nhữngđiều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường hội thảo quốc tế về đào tạo theo học chế tín chỉ; chủ động hoặc tận dụng những mối quan hệ của các cơ quan quản lý cấp trên của mình để tìm kiếm những cơ hội hợp tác với những trường đại học trên thế giới có cùng lĩnh vực đào tạo.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì việc quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo theo học chế tín chỉ nói riêng đóng một vài trò quan trọng trong thời kỳ này, nó thúc đẩy được nền giáo dục theo hướng hiện đại, bắt kịp được với nền giáo dục của thế giới. Việc đào tạo thành công theo học chế tín chỉ sẽ giúp tạo ra một nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Tạo ra cho tương lai một thế hệ có tư duy khoa học, nhanh nhẹn, thích nghi cao đối với sự phát triển của kinh tế./.
Trường Đại học Công đoàn