1. Những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thi hành pháp luật
Có thể nói, tổ chức thi hành pháp luật có ý nghĩa then chốt trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước. Bên cạnh việc ghi nhận những thành tựu đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của công tác này cũng được Đảng ta thẳng thắn đánh giá, nhìn nhận, từ đó, có những chủ trương, định hướng phù hợp để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW) đã nhận định hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống; thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu, việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn hạn chế.
Trong văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng đã nhận định về năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thi hành pháp luật còn yếu, năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là một khâu yếu[1].
Tiếp theo đó, Văn kiện Đại hội XII cũng đã nhận định hạn chế của công tác này: Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm, cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu quả[2].
Đại hội XIII của Đảng đã phân tích, đánh giá sâu sắc, toàn diện những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội XIII của Đảng nhận định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm, kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu quả hoạt động còn hạn chế[3]. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp[4]. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 cũng đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém như: Giám sát, phản biện xã hội trong xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách hiệu quả chưa cao[5], thực thi pháp luật chưa hiệu quả, chấp hành pháp luật có nơi chưa nghiêm, việc giám sát chưa chặt chẽ, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao[6].
Bên cạnh đó, Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Kết luận số 01-KL/TW) đã nhận định: Công tác tổ chức thi hành pháp luật là khâu yếu trong thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW; việc tổ chức thực hành pháp luật có lúc, có việc còn lỏng lẻo, tính răn đe, giáo dục chưa cao. Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã chỉ rõ: Sự phối hợp giữa công tác xây dựng pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật chưa chặt chẽ. Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật cũng nhận định: Việc tổ chức thi hành pháp luật ở một số nơi còn lúng túng, hiệu quả chưa cao; ý thức chấp hành pháp luật trong một số bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp.
Có thể nhận thấy, tình trạng pháp luật không được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, triệt để đã làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tác động xấu đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội.
2. Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng về tổ chức thi hành pháp luật
Nghị quyết số 48-NQ/TW đặt ra mục tiêu đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật, trong đó, xác định việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Kết luận số 01-KL/TW đã chỉ rõ: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải gắn với tổ chức thi hành pháp luật, củng cố các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật vừa là công cụ quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Để thực hiện mục tiêu nêu trên, tại Kế hoạch số 1141-KH/BCSĐCP ngày 11/11/2016 của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW đã giao Bộ Tư pháp chủ trì tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật; nâng cao năng lực phản ứng chính sách và các vấn đề mới phát sinh; nghiên cứu xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật, trong đó quy định sự gắn kết, sử dụng hiệu quả các công cụ phổ biến pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật, củng cố các thiết chế thi hành pháp luật.
Tiếp đó, tại các kỳ Đại hội XI, XII, Đảng đã xác định nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách và tập trung nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống; đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa[7].
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự nhất quán, kế thừa và tiếp nối những chủ trương, đường lối của Đảng trước đây về tổ chức thi hành pháp luật. Theo đó, Đảng tiếp tục xác định chủ trương lớn là “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế”[8].
Tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện XIII của Đảng thể hiện sự nhất quán, kế thừa và tiếp nối những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền, về nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tổ chức thi hành pháp trong các bản Hiến pháp, trong các báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại các Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, các nghị quyết, kết luận, báo cáo tổng kết... Đây là một nội dung xuyên suốt, có tính lịch sử và ngày càng được phát triển theo hướng cụ thể, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật
3.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của công tác tổ chức thi hành pháp luật
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò của công tác tổ chức và theo dõi thi hành pháp luật, từ đó tạo chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động của đội ngũ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình tổ chức thực thi các quy định của pháp luật, thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao. Các cấp ủy Đảng phải thường xuyên tiến hành xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện pháp luật trên địa bàn cấp mình, phải luôn xác định vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên trong việc tổ chức thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc của cấp ủy Đảng đối với việc tổ chức thi hành pháp luật tại địa phương để giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, đặc biệt đối với những vụ việc, vấn đề liên quan đến việc thi hành pháp luật nổi cộm, phức tạp, gây bức xúc dư luận xã hội.
3.2. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về lý luận đối với những vấn đề trực tiếp liên quan đến tổ chức thi hành pháp luật, đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật
Tổ chức thi hành pháp luật hiệu quả là vấn đề quan trọng của bất kỳ một quốc gia nào. Đây là vấn đề không mới nhưng có nhiều nội dung liên quan đến lý luận và thực tiễn của hoạt động này chưa được làm sáng tỏ. Quan niệm, phạm vi, cách thức tổ chức thi hành pháp luật ở các quốc gia trên thế giới còn nhiều điểm khác biệt. Ở Việt Nam, với đặc thù của chế độ chính trị Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cần phải có nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để làm cơ sở, luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện thể chế pháp luật trong lĩnh vực này.
Để giải quyết những tồn tại trên thực tiễn, cần nghiên cứu, xây dựng luật về tổ chức thi hành pháp luật, đây sẽ là giải pháp vô cùng quan trọng nhằm pháp lý hóa, tạo cơ sở pháp lý cơ bản vững chắc để phát huy hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Luật Tổ chức thi hành pháp luật cần quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức thi hành pháp luật; xác định rõ ràng, cụ thể các phương thức, nội dung tổ chức thi hành pháp luật và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tổ chức thi hành pháp luật đạt hiệu quả.
3.3. Tiếp tục kiện toàn và đổi mới về tổ chức, bộ máy, biên chế, tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác tổ chức thi hành pháp luật
Trước yêu cầu của thực tiễn, các bộ, ngành ở Trung ương cần bố trí, sắp xếp bảo đảm có cán bộ chuyên trách về tổ chức và theo dõi thi hành pháp luật tại Vụ Pháp chế; các địa phương cần thành lập Phòng Pháp chế tại các sở, ngành theo đúng quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế. Trong thời gian này, khi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đang được xem xét sửa đổi, bổ sung, các địa phương cần tổ chức thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, có hiệu quả Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 26/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật” giai đoạn 2018 - 2022, trong đó có nội dung về kiện toàn tổ chức pháp chế các bộ, ngành; bố trí biên chế pháp chế chuyên trách tại các sở, ngành chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thực hiện nhiệm vụ công tác pháp chế nói chung và làm đầu mối công tác tổ chức thi hành pháp luật nói riêng.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thi hành pháp luật có năng lực chuyên môn và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, nghề nghiệp vững vàng. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong những vấn đề có tính then chốt là phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn, nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức làm công tác tổ chức thi hành pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những chính sách thỏa đáng về cơ chế, chế độ ưu tiên, thu hút đối với những người làm công tác tổ chức thi hành pháp luật, đồng thời, cần có sự đầu tư đầy đủ, toàn diện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tức là điều kiện cần và đủ trong tổ chức thi hành pháp luật, tạo ra môi trường thuận lợi trong việc triển khai hoạt động tổ chức thi hành pháp luật trong thực tiễn.
3.4. Đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động tổ chức thi hành pháp luật
Thứ nhất, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Cần thường xuyên thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, làm cho họ hiểu rõ được quyền hạn, trách nhiệm của mình trên nguyên tắc thực hiện công vụ theo đúng quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì pháp luật quy định. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao trình độ, kiến thức pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân, thu hút người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh: (i) Nghiêm túc chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính trong xây dựng văn bản quy định chi tiết, thực hiện nghiêm các quy định của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết như yêu cầu về việc trình dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo dự án luật, pháp lệnh. (ii) Đề cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, lấy kết quả thực hiện công tác này là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ theo năm công tác và theo nhiệm kỳ. Phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, nhất là giữa cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh và cơ quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết trong quá trình xây dựng, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh liên quan đến nội dung giao quy định chi tiết.
Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật: (i) Đổi mới nội dung theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật theo hướng nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc phương pháp đánh giá dựa trên kết quả của các nước tiên tiến trên thế giới đang áp dụng. Theo đó, cần sớm nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí và phương pháp theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật dựa trên kết quả với các tiêu chí, nội dung cụ thể và các phương pháp đánh giá chính xác, khoa học. (ii) Xây dựng, phát triển mô hình cộng tác viên trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng, kiểm tra và tổ chức, theo dõi thi hành pháp luật. (iii) Quy định cụ thể, rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật. (v) Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật, từ đó kịp thời đề xuất, kiến nghị các giải pháp để giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như chấn chỉnh các sai phạm, bảo đảm việc thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. (vi) Tăng cường bố trí nguồn lực về kinh phí để hoạt động theo dõi thi hành pháp luật được triển khai đồng bộ, toàn diện, đáp ứng mục tiêu đặt ra, Nhà nước cần quy định đầy đủ, rõ ràng và cụ thể các mục chi và định mức chi cho công tác này, qua đó các bộ, ngành và địa phương mới có căn cứ, cơ sở lập dự toán triển khai các hoạt động theo dõi thi hành pháp luật hằng năm.
Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện cơ chế giải trình minh bạch, kịp thời trong tổ chức thi hành pháp luật: Quy định rõ trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm tính minh bạch kịp thời trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong đó, xác lập cơ chế về trách nhiệm giải trình trước nhân dân và trách nhiệm giải trình hành chính bao gồm trách nhiệm giải trình trước cơ quan quản lý cấp trên và người có thẩm quyền trong cơ quan đó; trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước với các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước; quy định các biện pháp xử lý kỷ luật áp dụng đối với cơ quan nhà nước, người đứng đầu cơ quan nhà nước thực hiện không đúng, không thực hiện nhiệm vụ được giao trong tổ chức thi hành pháp luật
Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật: Đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện Chính phủ điện tử, xác lập đầy đủ mối quan hệ tương tác giữa người dân và Chính phủ thông qua phương tiện công nghệ hiện đại, qua đó, tăng cường năng lực làm việc hiệu lực, hiệu quả, minh bạch để cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp. Theo đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp được tốt hơn. Xây dựng Đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm công nghệ thông tin phát huy tối đa vai trò của mình trong hoạt động quản lý nhà nước về tổ chức thi hành pháp luật.
3.5. Tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân và doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật
Thiết lập các hình thức đa dạng, linh hoạt trong tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của doanh nghiệp trong thực thi pháp luật, trong đó, chú trọng việc ghi nhận, xử lý công khai, công bằng, nhanh chóng, khách quan, đúng thẩm quyền; chủ động tổ chức đối thoại với doanh nghiệp về các quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp phản ánh, kiến nghị; trường hợp không giải quyết được, cần giải thích, thông tin trả lời rõ ràng, minh bạch. Thiết lập kênh thông tin đa dạng, thuận lợi, bảo mật để người dân, doanh nghiệp phát huy tính tự giác, kịp thời khiếu nại, tố cáo về những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi pháp luật.
Tăng cường chỉ đạo việc tổ chức tiếp nhận và tập trung giải quyết các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của người dân và doanh nghiệp kịp thời, đúng quy định pháp luật. Người đứng đầu các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước các cấp phải dành thời gian tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, giải quyết hiệu quả các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
3.6. Tiếp tục hoàn thiện chế độ công chức, công vụ theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp và đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, thực hiện kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh cán bộ, công chức vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi công vụ
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ, công chức phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng và ban hành kế hoạch theo dõi, kiểm tra, giám sát và xử lý công chức, viên chức các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3.7. Đổi mới về cơ chế phối hợp trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật
Với thể chế pháp luật hiện hành, cơ chế phối hợp trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật mới chỉ tập trung điều chỉnh quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước (bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp), mà chưa thiết lập được cơ chế phối hợp ở tầm vĩ mô giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị. Do vậy, Chính phủ với vai trò là chủ thể tổ chức thi hành pháp luật cần thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ với các chủ thể khác trong hệ thống chính trị như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác trong quá trình triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật.
Cục Quản lý XLVPHC & TDTHPL, Bộ tư pháp
[1]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
[2]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr. 89 - 90.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr. 94.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Quyển II, tr. 75.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Quyển II, tr. 76.
[7]. Điểm 2 Mục 14 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Quyển I, tr. 179.