Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “... Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”. Chế định Thừa phát lại (TPL) ra đời nhằm hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp. Thông qua TPL, người dân có thêm sự lựa chọn khi yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án, góp phần bảo đảm tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, hoạt động của TPL chủ yếu vẫn là lập vi bằng, việc tham gia vào các hoạt động liên quan đến thi hành án dân sự (THADS) còn hạn chế. Hoạt động tổ chức thi hành án còn chưa tương xứng với tiềm năng của mô hình và năng lực của các Văn phòng TPL, cũng như chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra cho TPL là xã hội hóa THADS.
Trong phạm vi bài viết, tác giả đi sâu phân tích một số quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của TPL trong THADS và một số bất cập từ thực tiễn, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của TPL đối với hoạt động THADS.
1. Vai trò của Thừa phát lại trong hoạt động thi hành án dân sự
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của TPL (Nghị định số 08/2020/NĐ-CP), TPL là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện THADS, tổ chức THADS theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan. Theo Điều 3 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP thì công việc TPL được làm trong THADS gồm: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan. TPL không tổ chức thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án.
TPL có vai trò quan trọng trong hoạt động THADS, cụ thể như: Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của TPL giúp hỗ trợ cho người dân khi cần tìm kiếm thông tin, giúp người dân được xem xét miễn phí thi hành án[1]. Việc tống đạt và xác minh của TPL đồng thời cũng giúp cơ quan THADS thuận lợi hơn trong quá trình tổ chức thi hành án. Việc trực tiếp tổ chức thi hành án của TPL tạo điều kiện để người dân có thêm sự lựa chọn phù hợp với mong muốn, niềm tin của mình khi yêu cầu THADS; góp phần giảm tải cho cơ quan THADS, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động này[2]. Tuy nhiên, trong thực tiễn, hoạt động chính của các Văn phòng TPL trong THADS vẫn tập trung vào công việc tống đạt còn các công việc khác như xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án đạt kết quả còn thấp.
2. Một số khó khăn trong hoạt động thi hành án dân sự của Thừa phát lại trong thực tiễn
Một là, về tống đạt văn bản, quyết định về THADS:
Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định: “Tống đạt là việc thông báo, giao nhận giấy tờ, hồ sơ, tài liệu do TPL thực hiện theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Khoản 1 Điều 32 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định, TPL thực hiện tống đạt các giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của cơ quan THADS. Giấy tờ, hồ sơ, tài liệu thỏa thuận tống đạt bao gồm: Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập, thông báo của cơ quan THADS. Trong trường hợp cần thiết, TPL có thể tống đạt các loại giấy tờ, hồ sơ, tài liệu khác theo đề nghị của cơ quan THADS.
Số lượng giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của cơ quan THADS cần phải tống đạt là rất lớn (quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án, quyết định ủy thác, quyết định đình chỉ thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập...) và còn cả các loại văn bản khác phát sinh trong quá trình thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, có rất nhiều loại văn bản cần thông báo cho đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy chưa có thống kê cụ thể về số lượng các loại văn bản mà chấp hành viên cần thông báo nhưng thực tiễn thi hành án cho thấy, với một hồ sơ THADS thì chấp hành viên, cán bộ thi hành án phải tống đạt ít nhất 02 loại văn bản, đó là quyết định thi hành án và giấy triệu tập. Trong trường hợp đương sự tự nguyện thi hành án và trong trường hợp chỉ có hai đương sự (01 người phải thi hành án, 01 người được thi hành án) thì ít nhất cũng phải tống đạt 04 văn bản. Công việc này sẽ tăng lên khi có nhiều đương sự, người liên quan và mức độ phức tạp của vụ việc thi hành án. Cho tới nay, chưa có thống kê chính thức về việc tống đạt của một chấp hành viên là bao nhiêu văn bản trong một năm. Tuy nhiên, theo số liệu bình quân của cả nước năm 2020[3] thì bình quân ở mức thấp nhất việc tống đạt của một chấp hành viên là khoảng gần 900 văn bản/năm. Với số lượng tống đạt là hơn hai văn bản/ngày/chấp hành viên mà chưa trừ ngày lễ, thứ bảy và chủ nhật thì việc tống đạt một lượng lớn văn bản dẫn đến sự quá tải trong công việc của chấp hành viên, làm giảm hiệu quả thi hành án; mặt khác, cũng làm tiêu tốn khá nhiều thời gian và ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động THADS, trong khi đó, nếu TPL thực hiện việc tống đạt các văn bản về thi hành án sẽ giúp giảm tải rất nhiều công việc cho chấp hành viên. Tuy nhiên, việc thông báo qua TPL sẽ phát sinh chi phí khá lớn. Theo Điều 62 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, chi phí tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của cơ quan THADS do cơ quan THADS thỏa thuận với Văn phòng TPL trên cơ sở khung mức chi phí. Khung mức chi phí tống đạt được quy định như sau: Tối thiểu là 65.000 đồng/việc và tối đa là 130.000 đồng/việc; trường hợp tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu ngoài địa bàn cấp tỉnh hoặc ở vùng đảo, quần đảo ngoài địa bàn cấp huyện nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở thì phải thỏa thuận về chi phí tống đạt.
Trong thực tế, cơ quan THADS thường rất ít khi thực hiện việc tống đạt thông qua TPL. Theo số liệu của Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, từ ngày 01/10/2019 đến ngày 31/7/2020, các Văn phòng TPL đã tống đạt được 587.835 văn bản (trong đó, tống đạt văn bản của Tòa án là 582.876 và của cơ quan THADS là 4.959 văn bản)[4]. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chính là do nguồn kinh phí tống đạt được cấp để chi trả cho TPL còn hạn chế, nên việc tống đạt các văn bản về THADS thông qua TPL còn nhiều khó khăn.
Hai là, về xác minh điều kiện thi hành án của TPL:
Theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận với Văn phòng TPL về việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án kể cả trong trường hợp vụ việc đó đang do cơ quan THADS trực tiếp tổ chức thi hành. TPL có quyền xác minh điều kiện thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan THADS trên địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở. Khi thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án, TPL có quyền xác minh ngoài địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở.
Khoản 1 Điều 45 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ký kết hợp đồng dịch vụ, Trưởng Văn phòng TPL phải ra quyết định xác minh điều kiện thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Quyết định xác minh phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở và cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành án theo quy định của pháp luật THADS. Trước đây, Điều 31 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ) quy định: “Các quy định khác của pháp luật về thi hành án dân sự cũng được áp dụng trong việc xác minh điều kiện thi hành án”, không có quy định về việc gửi quyết định xác minh cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở và cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành án theo quy định của pháp luật THADS. Đa số ý kiến cho rằng, quy định Văn phòng TPL phải gửi quyết định xác minh cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và cơ quan THADS phần nào chưa phù hợp với mục đích xã hội hóa THADS, tạo sự bình đẳng giữa Văn phòng TPL với các cơ quan THADS; mặt khác, điều này cũng dẫn đến mất nhiều thời gian, rườm rà về thủ tục hành chính.
Điều 4 Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN ngày 17/01/2014 của Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của TPL tại các tổ chức tín dụng (Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN) quy định: Người đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin thông qua biên bản xác minh (trong trường hợp xác minh trực tiếp theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch này) hoặc bằng văn bản cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều này trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu cung cấp thông tin. Đồng thời, Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN cũng có quy định về trách nhiệm bảo mật thông tin đối với TPL, Văn phòng TPL, người yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án và các cơ quan, tổ chức có liên quan nhưng lại không đề cập đến trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc tiết lộ hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của TPL. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả xác minh điều kiện thi hành án của TPL.
Theo số liệu thống kê năm 2016[5], các Văn phòng TPL trên cả nước xác minh được 36 vụ, đạt doanh thu 136.000.000 đồng; năm 2017 xác minh được 21 vụ, đạt doanh thu 83.000.000 đồng; năm 2018 xác minh được 12 vụ, đạt doanh thu 22.000.000 đồng; năm 2019 xác minh được 07 vụ, đạt doanh thu 15.000.000 đồng[6]. Còn theo số liệu thống kê của Cục Bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp thì từ ngày 01/10/2019 đến ngày 31/7/2020[7], các Văn phòng TPL đã xác minh điều kiện thi hành án 05 việc.
Theo phản ánh của nhiều Văn phòng TPL tại Hà Nội cho thấy[8], bên cạnh các cơ quan nhận thức đầy đủ và phối hợp tích cực với TPL thì còn nhiều cơ quan, tổ chức tín dụng gây khó dễ, thậm chí từ chối yêu cầu của TPL. Tâm lý e ngại TPL không phải là cơ quan nhà nước vẫn còn khá phổ biến. Một số ngân hàng cũng chưa tích cực, hoặc vận dụng quy định bảo mật thông tin về tài khoản của khách hàng để từ chối yêu cầu xác minh về tài khoản, một số trường hợp kéo dài thời gian để chủ tài khoản rút tiền ra khỏi tài khoản né tránh việc thi hành án. Vẫn còn tình trạng một số Ủy ban nhân dân, Công an cấp xã chưa hiểu biết nhiều về TPL, cá biệt có nơi từ chối, không cung cấp yêu cầu xác minh của TPL, hoặc yêu cầu phải gửi lại tài liệu. Nhiều vụ, cán bộ phải đi lại nhiều lần gây tốn kém thời gian, công sức.
Một số quy định pháp luật về TPL còn chưa thống nhất, cụ thể như: Tại khoản 1 Điều 44 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định: Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có quyền thỏa thuận với Văn phòng TPL về việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; tại khoản 1 Điều 48 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định: Người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền sử dụng kết quả xác minh điều kiện thi hành án của TPL để yêu cầu thi hành án hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Như vậy, người phải thi hành án không thuộc đối tượng được sử dụng kết quả xác minh thi hành án của Văn phòng TPL, do đó, cần có sự sửa đổi, bổ sung quy định này sao cho phù hợp.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật hiện hành thì TPL chỉ được xác minh điều kiện thi hành án khi có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người dân có nhu cầu xác minh điều kiện thi hành án để yêu cầu áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhưng không thuộc thẩm quyền của TPL dẫn đến không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ba là, về chức năng tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TPL:
Theo quy định tại Điều 51 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, TPL được quyền tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định sau đây: (i) Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở; (ii) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở; (iii) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở. Theo đó, TPL chỉ có thẩm quyền tổ chức thi hành án đối với bản án, quyết định của Tòa án, không có thẩm quyền tổ chức thi hành án đối với phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Cũng theo quy định tại Điều 51 nêu trên, TPL không tổ chức thi hành phần bản án, quyết định thuộc diện thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự hiện hành. Cụ thể, gồm phần bản án, quyết định sau: Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước (theo khoản 4 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự thì các khoản thu khác cho Nhà nước thuộc diện cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án bao gồm: Khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước; khoản bồi thường cho Nhà nước, cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; khoản thu nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước); thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. Tuy nhiên, một bất cập trong thực tiễn là trong các bản án, quyết định của Tòa án chưa ghi nhận việc Văn phòng TPL có chức năng tổ chức thi hành án để đương sự biết mà yêu cầu Văn phòng TPL tổ chức thi hành án cho mình. Điều này cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP thì cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm, người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một Văn phòng TPL hoặc một cơ quan THADS tổ chức thi hành án. Việc THADS của Văn phòng TPL được tiến hành sau khi người yêu cầu thi hành án và Trưởng Văn phòng TPL đạt được thỏa thuận về việc thi hành án. Trưởng Văn phòng TPL căn cứ vào nội dung hợp đồng dịch vụ và thẩm quyền thi hành án quy định tại Điều 35 Luật Thi hành án dân sự hiện hành có văn bản đề nghị Chi cục trưởng Chi cục THADS hoặc Cục trưởng Cục THADS nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở ra quyết định thi hành án theo thẩm quyền. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án của thủ trưởng cơ quan THADS, Văn phòng TPL đã đề nghị phải gửi quyết định thi hành án đó cho người được thi hành án, người phải thi hành án, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện (nếu vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi hành án cấp huyện) hoặc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (nếu vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi hành án cấp tỉnh) nơi Văn phòng TPL đặt trụ sở. Theo đó, TPL không có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Điều 52 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định: Khi tổ chức thi hành án, TPL có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (i) Thực hiện kịp thời, đúng nội dung quyết định thi hành án được thủ trưởng cơ quan THADS ban hành theo đề nghị của Trưởng Văn phòng TPL; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; (ii) Mời đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; (iii) Kiến nghị thủ trưởng cơ quan THADS xem xét sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án đã ban hành theo đề nghị của Trưởng Văn phòng TPL; (iv) Xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp cung cấp thông tin, tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án.
Khoản 2 Điều 52 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP cũng quy định khi tổ chức thi hành án, TPL không được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (i) Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 66, Điều 71, Điều 72 Luật Thi hành án dân sự hiện hành; (ii) Sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định tại khoản 9 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự hiện hành; (iii) Xử phạt vi phạm hành chính; (iv) Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự hiện hành; (v) Yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự hiện hành; (vi) Các quyền yêu cầu Tòa án xác định người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ tạm giữ; xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản; giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 68, khoản 3 Điều 69, khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự hiện hành.
Như vậy, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã giới hạn một số công việc mà TPL được làm và không được làm trong tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, việc giới hạn này dẫn đến TPL rất khó để có thể chủ động trong việc tổ chức thi hành án, vì phần lớn các việc thi hành án khi người dân đã nhờ đến TPL tổ chức thi hành thường có tính chất khó khăn, phức tạp, trong khi quyền hạn của TPL bị giới hạn nhiều, dẫn đến việc tổ chức thi hành án bị phụ thuộc vào sự phối hợp của các cơ quan khác, phần nào cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án.
Ngoài ra, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP cũng chưa quy định trường hợp các bên thỏa thuận, cho phép TPL được ủy thác thi hành án như các cơ quan THADS nhằm đạt hiệu quả cao hơn cũng như giảm bớt chi phí, khó khăn cho các Văn phòng TPL.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Để nâng cao vai trò của TPL trong hoạt động THADS, cần phối hợp thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có thể thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của TPL, tạo thuận lợi cho công tác phối hợp giữa cơ quan, tổ chức nói chung và cơ quan THADS nói riêng với Văn phòng TPL được thuận lợi và hiệu quả hơn. Đồng thời, cần bổ sung các quy định pháp luật quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc hỗ trợ TPL thực hiện tống đạt, xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành án.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của TPL trong THADS. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của TPL trong THADS, về lâu dài, cần xây dựng Luật Thừa phát lại để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện hơn cho hoạt động này.
Đối với hoạt động tống đạt văn bản về THADS, cần có quy định rõ ràng và cụ thể về việc các cơ quan THADS, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân sử dụng dịch vụ tống đạt của TPL và có cơ chế tài chính rõ ràng để bảo đảm hoạt động này. Đối với hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, cần quy định rõ về trình tự, thủ tục thực hiện xác minh của TPL như: Về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong việc xác minh của TPL; trách nhiệm của việc thực hiện yêu cầu xác minh của TPL; trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc không cung cấp và chậm trễ trong việc cung cấp thông tin theo yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án của TPL.
Đối với hoạt động tổ chức thi hành án, nội dung công việc TPL được thực hiện trong THADS chỉ bao gồm 04 nhóm việc được quy định tại khoản 4 Điều 55 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, bao gồm: Xác minh điều kiện thi hành án; tổ chức thi hành án; thỏa thuận về thi hành án; thanh toán tiền thi hành án, điều này hạn chế chức năng tổ chức thi hành án của TPL. Do đó, cần mở rộng hơn nữa quyền hạn của TPL trong hoạt động THADS. Có thể xem xét trao cho TPL quyền ban hành quyết định thi hành án và được áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trên cơ sở thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an, bảo đảm tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án. Thông qua hoạt động thực tiễn này, một mặt, giúp cho đội ngũ TPL trưởng thành hơn, mặt khác, giúp nhà quản lý có được kinh nghiệm để có những giải pháp pháp lý thích ứng nhằm quản lý và kiểm soát hoạt động thi hành án của TPL được hiệu quả và thiết thực hơn.
Ba là, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với TPL trong lĩnh vực THADS. Mặc dù Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định TPL theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội đã quy định về việc quản lý khá chặt chẽ đối với việc TPL thực hiện nhiệm vụ THADS, với các cơ chế kiểm soát gồm: Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi đặt Văn phòng TPL kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tống đạt, việc thi hành án theo quy định của pháp luật; có quyền kháng nghị quyết định, hành vi vi phạm pháp luật của Trưởng Văn phòng TPL, TPL trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm (Điều 21, Điều 22). Tuy nhiên, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP đã có rất nhiều sự thay đổi, do đó, cần sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch này cho phù hợp.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền về TPL: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về TPL trên các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân bằng các hoạt động cụ thể như: Phối hợp với chính quyền địa phương, Phòng Tư pháp… tổ chức tuyên truyền để cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, doanh nghiệp và người dân trên địa bàn biết, phối hợp và sử dụng dịch vụ TPL. Lồng ghép việc tuyên truyền về chế định TPL vào kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương với những hình thức ngắn gọn, hiệu quả để nhân dân biết và tin tưởng.
Khoa Đào tạo các chức danh thi hành án dân sự, Học viện Tư pháp