Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm cũng như đảm bảo quyền con người, quyền công dân, là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, trong các quy định về những biện pháp ngăn chặn của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các nhà làm luật đã thể chế hóa đầy đủ các quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì trong các trường hợp bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền được phép bắt người trước, sau đó mới gửi hồ sơ, thủ tục sang đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”, nên quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sẽ không còn phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” là biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Biện pháp này thay thế cho biện pháp “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp” được quy định tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là phù hợp. Đây là biện pháp ngăn chặn quan trọng, tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Về mặt nội dung, quy định về biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành có các nội dung cơ bản sau đây:
- Căn cứ áp dụng biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” theo quy định tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có 03 trường hợp: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có căn cứ áp dụng giống như các căn cứ áp dụng biện pháp “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm các nội dung là sự “xác nhận của người cùng thực hiện tội phạm” và việc phát hiện “dấu vết tội phạm tại nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm” là những căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Nội dung này cho phép giải thích rõ ràng hơn, cụ thể hơn căn cứ áp dụng, tránh những trường hợp suy luận chủ quan, hoặc bỏ lọt những chứng cứ có tính chất tương tự mà không có căn cứ pháp lý để áp dụng.
Đồng thời, nhằm khắc phục quy định mang tính chất chung chung, chưa cụ thể về căn cứ bắt khẩn cấp trong trường hợp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: “Khi có căn cứ để cho rằng…”, điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải bảo đảm: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, trong trường hợp này khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ căn cứ để xác định người đó có các hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm và tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Về thẩm quyền ra lệnh “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”: Khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng”.
- Về trình tự, thủ tục: Tại khoản 3 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người”. Khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Khoản 5 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm: Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ; biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Như vậy, có thể thấy quy định về biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được những bất cập để phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Những vấn đề sửa đổi, bổ sung quan trọng về căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục có ý nghĩa to lớn trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu nội dung và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này và một số điều luật khác có liên quan, có thể thấy một số khó khăn, vướng mắc sau đây:
Một là, Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với tiêu đề là “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” nhưng nội dung của Điều này lại điều chỉnh đối với cả 2 biện pháp: Giữ người và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (lệnh, thủ tục phê chuẩn và thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp). Chúng ta có thể nhận thấy, điều này là chưa phù hợp, cần phải tách quy định tại Điều này thành hai điều luật khác nhau là “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” và “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” mới bảo đảm sự rõ ràng và hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
Hai là, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự và chỉ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” đối với một số tội phạm nhất định - được quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự là chưa triệt để; chưa đảm bảo yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa và răn đe tội phạm. Vì mục đích chính của biện pháp “giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng” là kịp thời ngăn chặn tội phạm, từ đó ngăn chặn việc họ có thể gây ra các hậu quả nguy hại rất lớn cho xã hội. Trong khi đó, có một số tội phạm có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội như: Hiếp dâm, mua bán người, mua bán trái phép chất ma túy, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản… không được quy định trong Điều 14 Bộ luật Hình sự - tức là đối với những tội phạm này người chuẩn bị phạm tội sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự cũng như bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Mà trên thực tế, những loại tội phạm này đều là các loại tội phạm mà người phạm tội có thể liên kết để hoạt động ổ nhóm, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp để gây ra hậu quả nguy hại rất lớn cho xã hội. Đây là một trong những quy định của pháp luật chưa thực sự hợp lý, có thể bỏ lọt và không kịp thời ngăn chặn được một số hành vi phạm tội nêu trên.
Ba là, theo quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nếu có đủ căn cứ thì có thể giữ người trong trường hợp khẩn cấp bất kỳ lúc nào, kể cả vào ban đêm. Sau khi giữ người, Cơ quan điều tra sẽ áp giải người bị giữ về trụ sở của mình. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người có thẩm quyền phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó, thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra áp giải người bị giữ về trụ sở của mình (khoản 1 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự). Tuy nhiên, khoản 6 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự lại có quy định khác, tuy cho phép áp dụng biện pháp áp giải đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, nhưng lại không được bắt đầu việc áp giải vào ban đêm (từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau). Như vậy, giữa Điều 110 và Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự chưa thống nhất với nhau về thời điểm bắt đầu việc áp giải. Điều này có thể gây khó khăn cho các cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Dó đó, cần có sự hướng dẫn hoặc sửa đổi lại nội dung các điều luật trên theo hướng có sự thống nhất.
Bốn là, theo quy định tại điểm c khoản 2 và khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự có thể hiểu rằng, sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó… Điều này cho thấy những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có quyền quyết định ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự lại quy định: Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng có quyền ra quyết định tạm giữ. Như vậy là có sự mâu thuẫn trong giữa khoản 2 Điều 110 và khoản 2 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có sự hướng dẫn cụ thể hoặc sửa đổi thống nhất lại trong nội dung của các điều luật trên.
Năm là, về thời điểm ra quyết định tạm giữ và lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Tại khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn…
Liên quan đến vấn đề này, tại Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã giải đáp: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải ra quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Viện kiểm sát). Quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ban hành trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Với quy định và giải đáp nêu trên thì trong trường hợp quyết định tạm giữ được ban hành trước lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã trở thành người bị tạm giữ. Cho nên nếu có căn cứ bắt người thì Cơ quan điều tra phải ra lệnh bắt người bị tạm giữ, việc quy định ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại thời điểm này đã không còn phù hợp. Vì vậy, theo tác giả các nhà làm luật nên cân nhắc và quy định một cách cụ thể về thời điểm ra quyết định tạm giữ và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Sáu là, về địa điểm thực hiện lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Theo trình tự tố tụng thì lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện tại nhà tạm giữ, quyết định tạm giữ của Cơ quan điều tra gửi đến giám thị nhà tạm giữ/tạm giam để thi hành (khi có quyết định tạm giữ thì người bị tạm giữ được đưa vào nhà tạm giữ). Nhưng thực tế, theo trình tự tố tụng trên thì việc thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không phải thực hiện tại nhà tạm giữ mà thực hiện tại trụ sở Cơ quan điều tra hoặc tại một địa điểm khác.
Thực tiễn xảy ra mâu thuẫn khi lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, biên bản giữ người và việc áp giải người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nhưng khi thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thực hiện tại Công an phường, xã, thị trấn nơi tội phạm xảy ra.
Bảy là, về cách tính thời hạn tạm giữ sau khi giữ người cũng chưa có sự thống nhất. Sau 12 giờ từ khi giữ người, cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định trả tự do hoặc tạm giữ. Trong trường hợp tạm giữ thì thời hạn tạm giữ được tính như thế nào thì luật chưa quy định rõ ràng nên việc tính thời hạn tạm giữ giữa các cơ quan có thẩm quyền cũng không có sự thống nhất. Một số đơn vị, địa phương tính thời hạn tạm giữ từ khi bắt đầu giữ người nhưng cũng có đơn vị, địa phương khác tại tính thời hạn từ thời điểm tạm giữ, tức là sau khi giữ người 12 giờ.
Tám là, quy định về địa điểm giữ người chưa cụ thể; việc sử dụng vũ lực để giữ người trong trường hợp có hành vi chống đối hoặc trốn tránh cũng chưa được pháp luật điều chỉnh, gây khó khăn cho việc áp dụng biện pháp này. Bởi không phải người bị giữ nào cũng nghiêm chỉnh chấp hành các mệnh lệnh của cơ quan hoặc người có thẩm quyền. Khi Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp này mà người bị giữ không chấp hành, thậm chí có hành vi chống trả thì lực lượng chức năng được sử dụng vũ lực đến mức độ nào để thực hiện chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Ngoài ra, luật cũng không quy định về địa điểm giữ người nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Chín là, tại khoản 1 Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Quy định này chưa đầy đủ - cụ thể là mới chỉ quy định ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt, chưa có quy định ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị giữ. Vì theo nội dung của quy định trên thì đối tượng áp dụng bao gồm của người bị bắt và người bị giữ.
Mười là, Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” nhưng lại điều chỉnh cả biện pháp “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” vừa không hợp lý về mặt kỹ thuật lập pháp vừa dường như làm cho biện pháp “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” trở nên không cần thiết. Bởi vì, mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án”. Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, nếu xét thấy người bị giữ có thể gây khó khăn cho việc giải quyết vụ việc, Cơ quan điều tra chỉ cần ra quyết định tạm giữ, sau đó ra quyết định khởi tố bị can rồi ra quyết định tạm giam hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do. Vì vậy, không nhất thiết phải áp dụng thêm biện pháp “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”, khi áp dụng làm phát sinh thêm thủ tục tố tụng, rườm rà, gây mất thời gian, lúng túng trong một số các tình huống nêu trên cho cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền.
Qua việc nghiên cứu nội dung cũng như thực tiễn áp dụng, chúng ta có thể nhận thấy những thay đổi quan trọng về căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục áp dụng như đã phân tích nêu trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, đặc biệt là trong việc áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp ngăn chặn này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người và kết quả giải quyết vụ án sau này nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét thận trọng nhằm áp dụng chính xác, chỉ áp dụng khi thật cần thiết, tránh lạm dụng. Đồng thời, đề nghị các nhà làm luật cũng như các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện hướng dẫn áp dụng pháp luật cần nhanh chóng có những biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trên, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong bối cảnh mới.
ThS. Phạm Thị Yến
Đại học Công nghệ Đông Á