Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định tại Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109, tác giả thấy rằng, hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau về hiệu lực thời gian theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và cụ thể là việc hồi tố đối với các vụ án đã và đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử từ thời gian mà Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố đến ngày 30/6/2016. Do vậy, nếu không có hướng dẫn kịp thời, thì các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng và cán bộ làm công tác thực tiễn hiểu và áp dụng khác nhau.
Về phần các quy định bất lợi ở khoản 2 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 chúng tôi xin không đề cập ở bài viết này, mà xin chỉ đề cập đến các quy định có lợi cho người phạm tội quy định ở khoản 3 của Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo chúng tôi khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định như vậy là đã quá rõ ràng. Tuy nhiên, Nghị quyết số 109 hướng dẫn thi hành, cụ thể hóa các trường hợp có lợi cho người phạm tội theo tinh thần của Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa đầy đủ và đường lối xử lý đối với những trường hợp này ra sao thì cũng chưa quy định rõ ràng.
Xin đơn cử ví dụ: Khoảng 08h00 ngày 20/10/2015, Nguyễn Văn A, Trần Văn B, Nguyễn Văn C ngồi uống nước và xem đánh cờ tướng tại nhà ông Hoàng Văn D tại Cụm 2, khu phố 1, phường ĐH, thành phố QT, tỉnh QT. Tại đây, A rủ B, C, D đánh bài ăn tiền, tất cả đồng ý và thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm được thua bằng tiền mặt. Đến khoảng 10h45 cùng ngày Công an phường ĐH, thành phố QT bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc và trên người A,B,C,D tổng cộng số tiền 2.500.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 202/2016/HSST ngày 22/1/2016 của Tòa án sơ thẩm đã quyết định:
Về hình sự: Tuyên bố các bị cáo A, B, C và D phạm tội “Đánh bạc”
Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điều 20; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 12 (mười hai) tháng tù, Trần Văn B 09 (chín) tháng tù, Nguyễn Văn C 07 (bảy) tháng tù, Hoàng Văn D 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trừ đi thời gian đã tạm giam trước đó.
Ngày 22/01/2016 các bị cáo kháng cáo xin được áp dụng hình phạt tiền hoặc được hưởng án treo.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 123/2016/HSPT ngày 28/3/2016 của Tòa án phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào các quy định của pháp luật, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xử lý đối với trường hợp cụ thể này, cũng như các trường hợp khác tương tự. Có quan điểm cho rằng, trường hợp này là Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm đã xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật với những lập luận như sau: Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, thì hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án này là đủ yếu tố cấu thành tội phạm, vụ án được xét xử theo trình tự luật định, mức hình phạt thỏa đáng. Đồng thời, theo quy định của pháp luật tại Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi của các bị cáo này hiện nay không phải là tội phạm nữa nhưng đối chiếu với Nghị quyết số 109 thì hành vi đánh bạc, tội danh đánh bạc không được nghị quyết quy định, nên không được áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội trong trường hợp này, mặc dù số tiền mà các bị cáo trong vụ án dùng vào việc đánh bạc đối chiếu với quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi đó không đủ định lượng cấu thành tội “Đánh bạc” quy định ở Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, hành vi phạm tội của những đối tượng trên đã được xét xử và kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật, nên được coi là trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt theo quy định tại điểm d khoản 2 Nghị quyết số 109 và họ sẽ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Chúng tôi cho rằng, nếu hiểu như quan điểm trên là chưa đúng, chưa thấu đáo, chưa toàn diện cho dù Nghị quyết số 109 quy định chưa hết các trường hợp có lợi mà người phạm tội được hưởng theo tinh thần của khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bởi lẽ, quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 là quy định bao trùm, quy định khái quát cho mọi trường hợp có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng, chứ không phải chỉ áp dụng đối với các tội phạm quy định ở các điểm d, đ khoản 2 Nghị quyết số 109 mà còn áp dụng cho tất cả những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kèm theo với một điều kiện bắt buộc mà Nghị quyết số 109 chỉ ra đó là, kể từ ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố (ngày 09/12/2015) hành vi phạm tội của họ đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, trở lại ví dụ trên, theo quan điểm của chúng tôi hành vi của các đối tượng trong vụ án đánh bạc này xảy ra trước ngày 09/12/2015 ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố và ngày 22/01/2016 mới xét xử sơ thẩm và ngày 28/3/2016 mới xét xử phúc thẩm. Do vậy, hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp đang trong giai đoạn xét xử. Đối chiếu với Nghị quyết số 109, thì trường hợp này tuy không được quy định trong Nghị quyết số 109, tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và quy định tại điểm d khoản 2 Nghị quyết số 109 thì rõ ràng hành vi của các bị cáo trong vụ án trên không được coi là tội phạm nữa và hành vi phạm tội của các bị cáo đang được giải quyết trong giai đoạn xét xử (Tòa án sơ thẩm xét xử ngày 22/01/2016 và Tòa án phúc thẩm xét xử ngày 28/3/2016) thì lẽ ra Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm phải tuyên bố hành vi của các bị cáo trong vụ án này không cấu thành tội phạm và tuyên đình chỉ vụ án, như vậy mới chính xác và đúng tinh thần của khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm d khoản 2 Nghị quyết số 109, nhưng trong trường hợp này cả Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm đã ra bản án kết tội đối với các bị cáo là sai lầm và vi phạm nghiêm trọng pháp luật.
Xuất phát từ việc Nghị quyết số 109 quy định chưa đầy đủ các trường hợp có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, chỉ sau 01 ngày Tòa án cấp phúc thẩm xét xử vụ án trên, Tòa án nhân dân tối cao có Công văn số 80/TANDTC-PC ngày 29/03 /2016 (gọi tắt là Công văn 80) về việc xử lý hành vi đánh bạc trái phép dưới 5 triệu đồng quy định: Kể từ ngày 09/12/2015 (ngày công bố Bộ luật Hình sự năm 2015) đến hết ngày 30/6/2016, đối với người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử, thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật Hình sự năm năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Kể từ ngày 01/7/2016, nếu hành vi đánh bạc trái phép dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, nhưng đã được xóa án tích mới bị phát hiện, Điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
Đồng thời với việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, người được miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp xét thấy hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cùng với việc đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển quyết định đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ án, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử lý vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền.
Chúng tôi cho rằng, quy định như Công văn số 80 của Tòa án nhân dân tối cao là đúng với tinh thần của khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, nhưng lại chưa đúng với tinh thần tại điểm d khoản 2 Nghị quyết số 109. Bởi vì, hành vi chơi bài ăn tiền của các bị cáo trong vụ án mà Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm kết án các bị cáo về tội “đánh bạc” này đối chiếu với Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi của họ không phải là tội phạm. Vì thế, căn cứ vào điểm d khoản 2 Nghị quyết số 109, thì hành vi của họ thuộc trường hợp không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm và vụ án được xét xử sơ thẩm trong tháng 01/2016 và xét xử phúc thẩm trong tháng 03/2016, thì được coi là vụ án đang trong giai đoạn xét xử theo quy định của Nghị quyết số 109. Do vậy, trong trường hợp này lẽ ra Tòa án sơ thẩm phải quyết định đình chỉ vụ án với lý do hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm do thay đổi của pháp luật và người phạm tội không có quyền đòi bồi thường oan, sai như tinh thần Công văn 80 của Tòa án nhân dân tối cao. Vì thế, Công văn số 80 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trong trường hợp này Tòa án phải đưa vụ án ra xét xử và miễn trách nhiệm hình sự cho họ là không phù hợp với tinh thần của Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109.
Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án trên của Tòa án là đúng quy định của pháp luật và các bị cáo trong vụ án này được coi là người đang chấp hành hình phạt và họ chỉ được miễn phần hình phạt còn lại, chúng tôi hoàn toàn không đồng tình với quan điểm này. Bởi lẽ, việc Tòa án xét xử và kết án các bị cáo trong trường hợp này là không đúng các quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109. Lẽ ra, Tòa án phải tuyên hành vi của các bị cáo là không phạm tội và đình chỉ vụ án, thì Tòa án lại tuyên hành của các bị cáo là phạm tội và kết án đối với họ là sai lầm và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Do vậy, bản án này phải được kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm để hủy cả hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm nói trên và tuyên đình chỉ vụ án mới đúng quy định của pháp luật. Còn việc miễn trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 của Nghị quyết số 109 là trường hợp bản án của Tòa án sơ thẩm đã xét xử trước ngày 09/12/2015 ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố và việc xét xử của Tòa án theo đúng các quy định của pháp luật và người đó đang chấp hành hình phạt thì mới áp dụng quy định của Nghị quyết số 109 để miễn phần hình phạt còn lại cho họ, và nếu sau ngày 01/7/2016 thì sẽ không được kháng nghị giám đốc thẩm. Tuy nhiên, trường hợp sau ngày 01/7/2016 mà những trường hợp khi xét xử mà có vi phạm pháp luật thì bản án, quyết định đó vẫn sẽ bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm để giải quyết lại cho đúng các quy định của pháp luật.
Đồng thời với việc hướng dẫn thi hành về nội dung của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì Nghị quyết số 109 của Quốc hội cũng chỉ rõ và yêu cầu Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng như các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật Hình sự năm 2015 đến mỗi người dân nói chung và cán bộ, công chức công tác trong các cơ quan pháp luật nói riêng và đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng phải nắm chắc nội dung của Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng như các quy định hướng dẫn thi hành để vận dụng vào trong công tác giải quyết các vụ án hình sự, không phải chỉ có tội “Đánh bạc” mà còn rất nhiều các trường hợp khác tương tự nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thi hành. Vì thế, để phát huy tác dụng của Bộ luật Hình sự năm 2015, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn ngay, hướng dẫn kịp thời các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, trong đó có hiệu lực về thời gian quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109.
Tòa án quân sự Trung ương