Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước gồm 05 chương, 21 điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2023.
1. Sự cần thiết ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước
Trải qua gần 30 năm hoạt động, quy mô hoạt động của kiểm toán nhà nước ngày càng được mở rộng, chất lượng và hiệu quả kiểm toán tăng dần qua từng năm. Hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước ngày càng hoàn thiện, đồng bộ từ Hiến pháp năm 2013, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Luật Kiểm toán nhà nước), Chiến lược phát triển kiểm toán nhà nước đến năm 2030, hệ thống chuẩn mực kiểm toán nhà nước đến các quy trình, quy chế chuyên môn, nghề nghiệp.
Tuy nhiên, trên thực tế, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước đang có xu hướng gia tăng và mang tính đặc thù nhưng đến nay lại chưa có đầy đủ quy định về cơ chế bảo đảm thi hành, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm; thiếu chế tài cụ thể nên chưa xử lý được vi phạm. Mặt khác, do chưa có chế tài cụ thể đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước ở cấp độ hành chính nên từ khi Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực thi hành, chưa có cơ quan chức năng xử lý những hành vi vi phạm này. Trong trường hợp xảy ra vi phạm trong hoạt động kiểm toán, kiểm toán nhà nước đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Theo quy định này, vi phạm thường không được xử lý kịp thời, phụ thuộc vào cơ quan, người có thẩm quyền. Trong khi đó, thời gian một cuộc kiểm toán thông thường là 60 ngày nên hầu hết các trường hợp kiểm toán nhà nước chỉ có thể sử dụng những phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ nhằm khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do vậy, việc ban hành Pháp lệnh là hết sức cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nước; tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước; nâng cao hiệu lực hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước và tính nghiêm minh của pháp luật.
Pháp lệnh này được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong hoạt động kiểm toán nhà nước nói riêng, kinh nghiệm xử phạt hành vi vi phạm hành chính từ thực tiễn hoạt động của các lĩnh vực tương đồng. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước nên Pháp lệnh chỉ quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm đã rõ, xảy ra thường xuyên và mang tính phổ biến để bảo đảm tính khả thi của Pháp lệnh.
2. Một số nội dung cơ bản của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước
2.1. Về kết cấu
Pháp lệnh gồm 5 chương, 21 điều, cụ thể: Chương I: Những quy định chung, gồm 07 điều (từ Điều 1 đến Điều 7); Chương II: Hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, gồm 07 điều (từ Điều 8 đến Điều 14); Chương III: Thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, gồm 02 điều (từ Điều 15 đến Điều 16); Chương IV: Thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chếthi hành quyết định xử phạt, gồm 03 điều (từ Điều 17 đến Điều 19); Chương V: Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (từ Điều 20 đến Điều 21).
2.2. Về nội dung cơ bản
Thứ nhất, về đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính.
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật Xử lý vi phạm hành chính), Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là những chủ thể có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của Luật Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được quy định tại Điều 4 gồm: “1. Cá nhân quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thực hiện hành vi quy định tại Chương II của Pháp lệnh này. 2. Tổ chức quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thực hiện hành vi quy định tại Chương II của Pháp lệnh này”.
Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất với quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 3 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, khoản 3 Điều 4 của Pháp lệnh quy định: “Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu thực hiện hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước khi đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc công vụ, nhiệm vụ thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi vi phạm thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước thì không bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan”.
Thứ hai, về các hành vi vi phạm hành chính.
Tại Điều 5 của Pháp lệnh, quy định về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước được xác định căn cứ vào các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước, bao gồm: Vi phạm quy định về các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 8 Luật Kiểm toán nhà nước; vi phạm quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán quy định tại Điều 57 và Điều 58 Luật Kiểm toán nhà nước; vi phạm quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước quy định tại Điều 68 Luật Kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, về hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.
- Về hình thức xử phạt: Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt hành chính bao gồm: (i) Phạt cảnh cáo; (ii) Phạt tiền.
- Về biện pháp khắc phục hậu quả: Căn cứ quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và để phù hợp với đặc thù hoạt động kiểm toán nhà nước, Pháp lệnh quy định 02 biện pháp khắc phục hậu quả gồm: (i) Buộc cải chính thông tin, tài liệu, dữ liệu có nội dung sai lệch, không chính xác hoặc không trung thực; (ii) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp (nếu có) do thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Thứ tư, về mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền.
Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước của cá nhân là 50.000.000 đồng. Mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước của tổ chức là 100.000.000 đồng.
Thứ năm, về các hành vi vi phạm hành chính; hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luật Kiểm toán nhà nước, Pháp lệnh đã quy định 07 điều (từ Điều 8 đến Điều 14) tương ứng với 07 nhóm loại hành vi vi phạm (là các hành vi phổ biến, xảy ra thường xuyên trên thực tế) tương ứng với đó là hình thức, mức phạt tiền và các biện pháp khắc phục hậu quả, cụ thể: Hành vi vi phạm các quy định về gửi báo cáo định kỳ (Điều 8); hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán (Điều 9 ); hành vi vi phạm quy định về trả lời và giải trình liên quan đến nội dung kiểm toán (Điều 10); hành vi không ký biên bản kiểm toán, không chấp hành quyết định kiểm toán (Điều 11); hành vi mua chuộc, hối lộ thành viên đoàn kiểm toán, cản trở công việccủa kiểm toán nhà nước (Điều 12); hành vi che giấu hành vi vi phạm pháp luật về tài chính công, tài sản công, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán, kết quả kiểm toán (Điều13); hành vi vi phạm quy định về thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của kiểm toán nhà nước (Điều 14).
Thứ sáu, về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
- Về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính: Điều 15 của Pháp lệnh quy định người có thẩm quyền lập biên bản, bao gồm: “a) Kiểm toán viên nhà nước; b) Tổ trưởng Tổ kiểm toán; c) Phó Trưởng đoàn kiểm toán; d) Trưởng đoàn kiểm toán; đ) Kiểm toán trưởng”.
- Về thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả: Điều 16 của Pháp lệnh quy định thẩm quyền của Trưởng đoàn kiểm toán và Kiểm toán trưởng trong việc xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ bảy, về khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Căn cứ vào các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan, Pháp lệnh quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyền khởi kiện và giải quyết đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức bị xử phạt tại khoản 2 Điều 17.
Thứ tám, trách nhiệm tổ chức thi hành.
Tại Điều 21 của Pháp lệnh quy định: “Tổng Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm tổ chức thi hành Pháp lệnh; rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền bảo đảm có hiệu lực đồng thời với thời điểm Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành”.
Với những nội dung cơ bản nêu trên cho thấy, Pháp lệnh đã quy định thống nhất, chi tiết và tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước trong thời gian tới.
Minh Minh