1. Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, thời hiệu và thẩm quyền giải quyết tố cáo
Về quyền của người tố cáo, Điều 154 và Điều 155 Luật Thi hành án dân sự quy định: Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Người tố cáo có các quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (không được ủy quyền cho người khác); yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù. Ngoài ra, người tố cáo còn được quyền rút tố cáo.
Nghĩa vụ của người tố cáo, theo Điều 155 Luật Thi hành án dân sự, thì người tố cáo phải trình bày trung thực, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo; nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Thời hiệu tố cáo, Luật Thi hành án dân sự không quy định thời hiệu tố cáo, mà bất kỳ khi nào công dân phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự, công dân đều có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để được xem xét, giải quyết.
Thẩm quyền giải quyết tố cáo, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, thì Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự giải quyết tố cáo đối với Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự giải quyết tố cáo đối với Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Có sự khác biệt trên là do hoạt động thi hành án là hoạt động tư pháp, các hoạt động của thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên cơ quan thi hành án đều được giám sát bởi Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án đồng thời là chấp hành viên, thực hiện các chức năng nhiệm vụ của chấp hành viên. Mặt khác, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý của người đứng đầu cơ quan đó nên người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết tố cáo[1]. Quy định này cho thấy sự khác biệt về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự so với Luật Tố cáo năm 2011. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Tố cáo năm 2011, thì tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
2. Thụ lý và thời hạn giải quyết tố cáo
2.1. Thụ lý đơn tố cáo
Điều 16 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định:
“1. Sau khi tiếp nhận tố cáo thuộc thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo kiểm tra, xác minh họ tên, địa chỉ của người tố cáo và các nội dung khác theo quy định tại khoản 2 Điều 20 của Luật Tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo.
Trường hợp cần thiết, người giải quyết tố cáo có thể làm việc trực tiếp với người tố cáo để làm rõ nội dung tố cáo và các vấn đề khác có liên quan trước khi thụ lý giải quyết tố cáo.
2. Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định thụ lý giải quyết tố cáo trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo và thông báo cho người tố cáo và người bị tố cáo biết”.
2.2. Thời hạn giải quyết tố cáo
Điều 157 Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày.
Luật Thi hành án dân sự không quy định về việc gia hạn giải quyết tố cáo còn Luật Tố cáo năm 2011 quy định: Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày (khoản 2 Điều 21). Việc gia hạn giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự có cần được quy định hay không là vấn đề chưa được các cơ quan thi hành án dân sự tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về thời hạn giải quyết tố cáo như hiện nay nếu chưa đảm bảo đủ thời gian để giải quyết tố cáo, thì rất cần có quy định về gia hạn giải quyết tố cáo.
3. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
Theo quy định tại khoản 4 Điều 157 Luật Thi hành án dân sự và Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp, thì trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được thực hiện như sau:
Bước 1: Thụ lý đơn tố cáo
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, công chức nghiên cứu nội dung đơn tố cáo, đề xuất người có thẩm quyền xử lý. Sau khi tiếp nhận tố cáo thuộc thẩm quyền, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo kiểm tra, xác minh họ tên, địa chỉ của người tố cáo và các nội dung khác theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Tố cáo năm 2011 và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo. Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định thụ lý giải quyết tố cáo trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo và thông báo cho người tố cáo và người bị tố cáo biết (Điều 15).
Bước 2: Xác minh nội dung tố cáo
Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo thành lập đoàn xác minh nội dung tố cáo. Đoàn xác minh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên để xác minh nội dung tố cáo (Điều 18) .
Bước 3: Báo cáo kết quả xác minh tố cáo
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc xác minh, Trưởng đoàn xác minh phải báo cáo bằng văn bản về kết quả xác minh với người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Trường hợp xác minh vụ việc phát hiện có dấu hiệu tội phạm, thì đoàn xác minh báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chuyển cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật (Điều 19).
Đối với trường hợp vụ việc phức tạp hoặc xét thấy cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tham khảo ý kiến tư vấn của cơ quan chuyên môn, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan, tổ chức cuộc họp, trao đổi ý kiến hoặc trưng cầu giám định trước khi kết luận nội dung tố cáo (Điều 20).
Bước 4: Thông báo dự thảo kết luận nội dung tố cáo
Trường hợp cần thiết, trước khi ban hành kết luận nội dung tố cáo, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo tổ chức cuộc họp để thông báo trực tiếp hoặc gửi dự thảo kết luận nội dung tố cáo để người bị tố cáo biết và tiếp tục giải trình. Trường hợp trong dự thảo kết luận nội dung tố cáo có thông tin thuộc bí mật nhà nước, thông tin có hại cho người tố cáo thì không thông báo thông tin đó (Điều 21).
Bước 5: Kết luận nội dung tố cáo
Căn cứ nội dung tố cáo, văn bản giải trình của người bị tố cáo, báo cáo kết quả xác minh tố cáo, các tài liệu, bằng chứng có liên quan, đối chiếu với các quy định của pháp luật, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ban hành kết luận nội dung tố cáo (Điều 22). Sau khi kết luận tố cáo được ban hành người giải quyết tố cáo phải công khai kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo (Điều 24).
Việc thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo theo quy định tại Điều 25 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp: Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo hoặc giao cho đơn vị đã tham mưu giải quyết tố cáo, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới thực hiện. Thủ trưởng cơ quan được giao tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo phải thực hiện đúng nội dung kết luận và báo cáo người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
4. Tố cáo tiếp và thủ tục giải quyết lại
Tố cáo tiếp và thủ tục giải quyết lại được quy định tại Điều 8 Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo. Theo đó, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chỉ giải quyết khi tố cáo tiếp thuộc một trong các trường hợp: Đã quá thời hạn giải quyết tố cáo mà vụ việc chưa được giải quyết hoặc có nội dung tố cáo chưa được giải quyết; tố cáo đã được giải quyết đúng pháp luật, nhưng có tình tiết mới chưa được phát hiện trong quá trình giải quyết tố cáo có thể làm thay đổi kết quả giải quyết tố cáo; khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật (cụ thể: Vi phạm pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết lại tố cáo; có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo không phù hợp với những chứng cứ thu thập được; việc xử lý người bị tố cáo và các tổ chức, cá nhân liên quan không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật đã được kết luận; có bằng chứng về việc người giải quyết tố cáo hoặc người tiếp nhận tố cáo, người xác minh nội dung tố cáo đã làm sai lệch hồ sơ vụ việc; có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của người bị tố cáo nhưng chưa được phát hiện).
5. Xử lý trường hợp rút tố cáo, kiến nghị của người bị tố cáo
Trong trường hợp người tố cáo xin rút một phần hoặc toàn bộ nội dung tố cáo và xét thấy việc rút tố cáo là có căn cứ thì người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ đối với nội dung tố cáo đó, việc rút tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản; trường hợp xét thấy hành vi vi phạm pháp luật chưa được phát hiện, xử lý hoặc có căn cứ cho rằng việc rút tố cáo do người tố cáo bị đe dọa, ép buộc thì người giải quyết tố cáo vẫn xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật[2].
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết luận nội dung tố cáo, nếu người bị tố cáo không đồng ý, có kiến nghị bằng văn bản đến cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo, thì giải quyết như sau[3]:
- Trường hợp việc giải quyết tố cáo đã đúng quy định của pháp luật thì cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo có văn bản trả lời, yêu cầu người bị tố cáo nghiêm túc thực hiện kết luận nội dung tố cáo.
- Trường hợp phát hiện có tình tiết mới hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền đã giải quyết tố cáo thì tiến hành giải quyết lại hoặc chỉ đạo giải quyết lại. Trình tự, thủ tục giải quyết lại tố cáo được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp.
6. Cơ chế giám sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự
Điều 159 Luật Thi hành án dân sự quy định các hoạt động của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự đều được giám sát bởi Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên, cụ thể: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.
Từ những quy định nêu trên cho thấy, pháp luật về tố cáo trong thi hành án dân sự hiện nay cơ bản đảm bảo quyền tố cáo của công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
[1]. Điều 157 Luật Thi hành án dân sự quy định người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết, cụ thể: 1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. 2. Trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu thì Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có trách nhiệm giải quyết. 3. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Điều 17 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.
[3]. Điều 23, Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.