1. Nhóm các quyền cơ bản của người tố cáo
Thứ nhất, quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo
Trong quá trình thực hiện quyền làm chủ của mình, công dân phát hiện ra những vi phạm, những hành vi trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào thì đều có quyền thông báo cho cơ quan, người có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm đó để có biện pháp xử lý, ngăn ngừa và khắc phục hậu quả xảy ra. Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp. Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc người tiếp nhận ghi lại việc tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo.
Đặc biệt, theo quy định của Luật Tố cáo, người tố cáo không có nghĩa vụ phải tố cáo tại đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết mà họ có thể tố cáo tại bất kì cơ quan, tổ chức Nhà nước nào. Khác với khiếu nại, khi nhận được đơn tố cáo của công dân, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét giải quyết hoặc chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền tuỳ thuộc đơn tố cáo đó thuộc hay không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức mình1. Song vì tố cáo có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, uy tín cũng như những quyền lợi chính đáng của cán bộ công chức Nhà nước nên người tố cáo có nghĩa vụ “trình bày trung thực về nội dung tố cáo” và phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật” (điểm b khoản 2 Điều 9). Quy định này của pháp luật hiện hành đã thể hiện được tính công bằng, công lý và so với những quy định về khiếu nại thì nó thể hiện một thái độ cứng rắn hơn. Vì vậy, khi người dân làm đơn tố cáo phải cân nhắc, suy nghĩ cẩn trọng và đặc biệt không thể vì động cơ cá nhân trả thù người có mâu thuẫn với mình hay vì một sự cạnh tranh không trong sáng... mà làm đơn tố cáo, vu khống làm mất uy tín, danh dự, thậm chí gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người bị tố cáo, nếu người tố cáo làm đơn tố cáo sai sự thật thì họ sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý mà pháp luật đã quy định sẵn theo như quy định của (điểm c, điểm đ khoản 2 Điều 9).
Thứ hai, quyền được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình
Người tố cáo thực hiện quyền tố cáo của mình chính là để phát hiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi trái pháp luật, thể hiện trách nhiệm của công dân vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng. Vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ người tố cáo, tránh những trường hợp do bị tiết lộ thông tin nên bị trả thù, trù dập hoặc có những bất lợi khác cho người tố cáo. Bên cạnh đó, việc giữ bí mật không chỉ đối với họ, tên, địa chỉ, bút tích mà còn giữ bí mật cả các thông tin khác của người tố cáo. Đây là quyền đương nhiên của người tố cáo và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện, áp dụng các biện pháp để bảo đảm an toàn cho người tố cáo. Tuy nhiên, trên thực tế do quá trình giải quyết tố cáo, nội dung tố cáo được tiếp nhận, xử lý bởi nhiều cơ quan, đơn vị với sự tham gia của nhiều cán bộ, công chức qua nhiều bước trình tự, thủ tục vì vậy việc thực hiện bảo mật nội dung tố cáo và thông tin về người tố cáo có những khó khăn. Trong thực tế, người tố cáo thường gửi đơn đến nhiều cơ quan khác nhau, càng làm cho việc bảo mật thông tin thêm khó khăn. Việc thực hiện quy định kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo gặp nhiều khó khăn khi triển khai trong thực tế. Trong khi đó một số cơ quan truyền thông đưa tin thiếu kiểm chứng cũng làm việc xác minh, bảo mật thông tin thêm khó khăn, phức tạp.
Thứ ba, quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Về bản chất khi thực hiện việc tố cáo, người tố cáo đã vì lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, vì vậy họ có quyền được biết thông tin về quá trình giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do nhiều lý do khác nhau nên người tố cáo khó có thể theo dõi, giám sát toàn bộ quá trình xử lý cụ thể của các cơ quan này Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định một trong những nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo2. Việc quy định như vậy là phù hợp, vừa góp phần giảm bớt thủ tục hành chính, tạo sự linh hoạt song vẫn bảo đảm cơ chế để người tố cáo cũng như các cơ quan, tổ chức khác giám sát quá trình giải quyết tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền. Cũng cần nói thêm rằng trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình thụ lý, giải quyết hoặc chuyển vụ việc sang cơ quan khác giải quyết hoặc vụ việc có nhiều vấn đề phức tạp cần phải xác minh, xử lý. Vì vậy, cần lưu ý khi người tố cáo có yêu cầu thì không nhất thiết cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho người tố cáo toàn bộ quá trình và kết quả giải quyết vụ việc mà phải cân nhắc, đối với những nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được thông báo cho người tố cáo.
Thứ tư, quyền tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết
Nếu người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo. Trên thực tế rất khó để xác định được “việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật” hoặc “việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là không đúng pháp luật” nếu như không xác minh, xem xét vụ việc cụ thể đó và việc xem xét này đòi hỏi một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, khoản 2 Điều 37 Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp, người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo phải xem xét hồ sơ giải quyết vụ việc tố cáo trước đó; trường hợp cần thiết, làm việc trực tiếp với người tố cáo về nội dung tố cáo tiếp, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan để quyết định xử lý đối với tố cáo tiếp. Có thể thấy, quy định thời hạn “20 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp” là quy định khả thi trên thực tế thay vì quy định 10 ngày như khoản 2 Điều 27 Luật Tố cáo năm 2011.
Thứ năm, quyền rút tố cáo
Đây là nội dung hoàn toàn mới về quyền của người tố cáo của Luật Tố cáo năm 2018 so với mới Luật Tố cáo năm 2011. Theo đó, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 9 thì người tố cáo có quyền rút tố cáo. Cụ thể hóa quy định này, Điều 33 Luật Tố cáo năm 2018 quy định rõ như sau: (1) Thời điểm người tố cáo có quyền tố cáo là trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo; (2) Phạm vi rút là rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung; (3) Hình thức của việc rút tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản; (4) Hậu quả của việc rút tố cáo này là nếu người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo thì người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo (trừ trường hợp được quy định trong luật). Nếu cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc đợi kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan thì người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo. Nếu có nhiều người cùng tố cáo mà có một hoặc một số người tố cáo rút tố cáo thì tố cáo vẫn tiếp tục được giải quyết theo quy định của Luật Tố cáo. Khi đã rút tố cáo, người tố cáo không được hưởng quyền và không phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định. Như vậy, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cụ thể điều kiện, yêu cầu của việc rút tố cáo, trách nhiệm giải quyết tố cáo khi hành vi bị tố cáo vẫn có dấu hiệu vi phạm pháp luật, việc xử lý hành vi cố ý tố cáo sai sự thật kể cả trong trường hợp rút tố cáo. Ví dụ:
+ Trường hợp người tố cáo rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết.
+ Trường hợp người tố cáo rút tố cáo nhưng có căn cứ xác định người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật về hành vi tố cáo của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thứ sáu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo
Trên thực tế có không ít trường hợp sau khi báo cho cơ quan nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật, người tố cáo đã phải gánh chịu rất nhiều hậu quả của việc trả thù, trù dập, đe doạ tinh vi từ phía người bị tố cáo. Vì vậy, kế thừa các quy định của Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định cho người tố cáo được quyền “yêu cầu” cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập và Luật Tố cáo năm 2018 cũng đã dành một chương riêng quy định về việc bảo vệ người tố cáo.
Thứ bảy, được khen thưởng theo quy định của pháp luật, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
Để khuyến khích việc tố cáo đúng, Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2018 đều ghi nhận quyền được khen thưởng của người tố cáo. Thực ra ngay trong Luật Thi đua khen thưởng cũng đã có quy định về việc khen thưởng, động viên đối với những cá nhân có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, đối với công dân có thành tích trong việc tố cáo cần phải có cơ chế khen thưởng thích đáng. Trong thời gian qua, cũng có nhiều người có thành tích trong việc tố cáo, đặc biệt là tố cáo hành vi tham nhũng nhưng việc khen thưởng mới chỉ dừng lại ở mức độ “vinh danh” động viên về tinh thần là chủ yếu, chưa có hình thức khen thưởng chính thức của Nhà nước hay động viên về mặt vật chất. Chính vì vậy, để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khuyến khích, động viên những người có trách nhiệm, dũng cảm đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật, Luật xác định nguyên tắc: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật chất và tinh thần. Ngoài ra, người tố cáo cũng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật vì hành vi tố cáo đã gây ra cho họ trong suốt quá trình tố cáo. Đây là quy định mới của Luật Tố cáo năm 2018 so với Luật Tố cáo năm 2011 nhằm khuyến khích tối đa tinh thần đấu tranh phòng chống và phát hiện các vi phạm pháp luật.
2. Quyền được bảo vệ của người tố cáo
Bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm của Nhà nước, là sự thể hiện cụ thể, sinh động bản chất của Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo đó, trên cơ sở kế thừa, phát triển các quy định của Luật Tố cáo năm 2011, Nghị định số 76/2012, Luật Tố cáo năm 2018 đã dành một chương riêng quy định về bảo vệ người tố cáo, trong đó đã quy định cụ thể các biện pháp (Chương VI - Bảo vệ người tố cáo).
Theo đó, khoản 1 Điều 47 Luật Tố cáo năm 2018 đã xác định đối tượng được bảo vệ theo quy định của Luật này gồm người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Quy định này đã là làm rõ khái niệm “người thân thích của người tố cáo” theo quy định của Luật Tố cáo năm 2011. Như vậy, có thể thấy Luật mới không mở rộng thêm các đối tượng được bảo vệ khác như người cung cấp thông tin, người làm chứng, người nắm giữ các tài liệu quan trọng liên quan đến nội dung tố cáo, người trực tiếp xác minh và người giải quyết tố cáo... Quy định như vậy là để tập trung nguồn lực cho công tác bảo vệ, bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, Luật mới đã mở rộng phạm vi bảo vệ, tăng biện pháp bảo vệ đối với người tố cáo. Cụ thể, Luật quy định không chỉ bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo mà còn áp dụng quyền bảo vệ tương tự đối với vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Luật Tố cáo năm 2018 thì người tố cáo còn được bảo vệ bí mật thông tin cá nhân trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ.
Căn cứ vào các quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ, Luật Tố cáo năm 2018 quy định áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo mà không phụ thuộc vào địa điểm cần bảo vệ (bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú). Như vậy, Điều 47 của Luật quy định việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại tất cả những nơi có thể ảnh hưởng đến người tố cáo, bao gồm: Nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quy định. Cũng theo quy định của Điều này, đối tượng bảo vệ không chỉ có người tố cáo mà còn cả những người thân thích của người tố cáo như vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ, anh em ruột thịt...; thời hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ.
Ngoài ra, Luật cũng xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo; đồng thời, cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ và các nội dung cơ bản về bảo vệ người tố cáo như bảo vệ bí mật thông tin; bảo vệ tại nơi công tác, nơi làm việc, nơi cư trú; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo. Cụ thể:
Một là, bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố cáo
Khi tiếp nhận tố cáo, thụ lý giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải nghiên cứu, xác định nội dung vụ việc, những thông tin nếu tiết lộ sẽ gây bất lợi cho người tố cáo để áp dụng biện pháp phù hợp nhằm giữ bí mật thông tin cho người tố cáo. Trường hợp cần thiết có thể lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá nhân khác của người tố cáo ra khỏi đơn tố cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời lưu trữ và quản lý thông tin về người tố cáo theo chế độ thông tin mật. Trong quá trình giải quyết tố cáo, nếu có yêu cầu làm việc trực tiếp với người tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, người giải quyết tố cáo phải bố trí thời gian, địa điểm và lựa chọn phương thức làm việc phù hợp để bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo. Trường hợp phát hiện người không có thẩm quyền có hành vi thu thập thông tin về người tố cáo, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm áp dụng biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc xử lý đối với người có hành vi vi phạm.
Hai là, bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo
Khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo của mình bị người có thẩm quyền quản lý, sử dụng có hành vi trù dập, phân biệt đối xử hoặc thuyên chuyển công tác dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo thực hiện các biện pháp bảo vệ cần thiết. Yêu cầu bảo vệ phải bằng văn bản. Chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu bảo vệ, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm kiểm tra, xác minh. Thời hạn kiểm tra, xác minh là 05 ngày làm việc. Trường hợp có căn cứ cho rằng yêu cầu của người tố cáo là chính đáng thì chậm nhất là 05 ngày làm việc, người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ được quy định tại Điều 57 của Luật Tố cáo năm 20184. Nếu người tố cáo là người làm việc theo hợp đồng lao động thì người có thẩm quyền giải quyết tố cáo sẽ: (i) Yêu cầu người sử dụng lao động chấm dứt hành vi vi phạm; khôi phục vị trí việc làm, các khoản thu nhập và lợi ích hợp pháp khác từ việc làm cho người được bảo vệ; (ii) Xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Ba là, bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo
Khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình hoặc người thân thích của mình, người tố cáo có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Yêu cầu bảo vệ của người tố cáo phải bằng văn bản. Trường hợp khẩn cấp, người tố cáo có thể yêu cầu trực tiếp bằng miệng hoặc thông qua các phương tiện thông tin khác, nhưng sau đó phải thể hiện ngay bằng văn bản. Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu có căn cứ cho thấy có nguy cơ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ) thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ biết. Trường hợp xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang diễn ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an nơi người được bảo vệ cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền để áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ.
Bốn là, bảo vệ tài sản của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo
Khi có căn cứ cho rằng, việc tố cáo có thể xâm hại đến tài sản của mình hoặc người thân thích của mình, người tố cáo có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Yêu cầu bảo vệ phải bằng văn bản. Trong quá trình giải quyết tố cáo nếu xét thấy có nguy cơ xâm hại đến tài sản của người được bảo vệ, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm áp dụng theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ về tài sản biết. Trường hợp xác định hành vi xâm hại tài sản đang xảy ra hoặc có thể xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ. Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo, phối hợp với cơ quan công an nơi có tài sản hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ sau đây: (1) Yêu cầu người có hành vi xâm hại đến tài sản của người được bảo vệ chấm dứt hành vi vi phạm; (2) Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Năm là, bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo
Khi có căn cứ cho rằng, việc tố cáo có thể xâm hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm hoặc các quyền nhân thân khác của mình, người thân thích của mình, người tố cáo có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Yêu cầu bảo vệ phải bằng văn bản. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, người có thẩm quyền bảo vệ áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây: (1) Yêu cầu người có hành vi xâm hại chấm dứt hành vi vi phạm và buộc xin lỗi, cải chính công khai; (2) Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý đối với người có hành vi vi phạm; (3) Đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người được bảo vệ bị xâm hại.
Các quy định của Luật Tố cáo năm 2018 về quyền của người tố cáo đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định trước đó của Luật Tố cáo năm 2011. Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và đảm bảo chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền tố cáo của mình, góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh