Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan khác không có sự giải thích về việc tự bào chữa và quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, từ thực tiễn trong hoạt động TTHS, có thể hiểu, tự bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Quyền tự bào chữa là quyền của người bị buộc tội được Hiến pháp và pháp luật về TTHS quy định, trong đó, người bị buộc tội được dùng lý lẽ, chứng cứ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển, quyền tự bào chữa trong TTHS được pháp luật quy định rất cụ thể, rõ ràng và được thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội. Quyền tự bào chữa được xác lập trong toàn bộ quá trình tố tụng. Người dân có thể sử dụng quyền tự bào chữa, quyền nhờ người bào chữa hoặc có thể sử dụng đồng thời cả hai quyền này. Do đó, quyền lợi của người bị buộc tội trong hoạt động TTHS được bảo đảm khá triệt để trong thực tiễn.
Trong xu hướng hiện nay ở nước ta, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, việc thực hiện quyền tự bào chữa đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, trong thực tiễn, quyền tự bào chữa hầu như không được thực hiện. Nói cách khác, các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa chưa thực sự đi vào đời sống xã hội. Từ thực tiễn ở nước ta hiện nay, có thể nhận thấy một số hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS như sau:
Một là, các quy định pháp luật hiện hành về quyền tự bào chữa trong TTHS còn chung chung, khái quát, chưa cụ thể, rõ ràng
Trong Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều quy định quyền tự bào chữa là một trong những quyền cơ bản của con người. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, người bị buộc tội đều được giải thích về các quyền do pháp luật quy định, trong đó có quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể thế nào là quyền tự bào chữa, tức là chưa quy định cụ thể về nội hàm của quyền tự bào chữa và việc tự bào chữa. Điều này dẫn đến thực trạng hiện nay là người bị buộc tội muốn thực hiện quyền tự bào chữa nhưng không biết được làm những gì trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Đây rõ ràng là những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, chi tiết.
Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có sự tách biệt trong việc quy định giữa người tự bào chữa và người bào chữa
Chương 5 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (từ Điều 72 đến Điều 84) quy định cụ thể về việc bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo đó, Bộ luật quy định cụ thể về người bào chữa; quyền và nghĩa vụ của người bào chữa; thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng; lựa chọn người bào chữa; chỉ định người bào chữa; thay đổi hoặc từ chối người bào chữa; thủ tục đăng ký bào chữa; trách nhiệm thông báo cho người bào chữa; gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam; thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án… Tuy nhiên, Bộ luật không có các quy định tương tự về người tự bào chữa.
Việc không tách biệt giữa người bào chữa và người tự bào chữa như quy định pháp luật hiện hành sẽ dẫn đến cách hiểu người tự bào chữa chính là người bào chữa. Trong trường hợp này, người tự bào chữa được hưởng quyền, nghĩa vụ và thực hiện những công việc như người bào chữa. Tuy nhiên, điều này là không hợp lý trong thực tế, bởi lẽ, người tự bào chữa và người bào chữa trong vụ án hình sự về bản chất là khác nhau, quyền, nghĩa vụ của người bào chữa vàngười tự bào chữa cũng khác nhau.
Ba là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có sự phân biệt giữa người bị buộc tội với người tự bào chữa
Khác với trường hợp nhờ người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, người tự bào chữa vừa là người bị buộc tội trong vụ án, vừa là người bào chữa cho mình, tức là, một người đóng hai vai trò khác nhau. Với vai trò là người bị buộc tội trong vụ án, người bị buộc tội có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, có quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật. Với vai trò là người tự bào chữa trong vụ án, người tự bào chữa được hưởng quyền và nghĩa vụ của việc bào chữa theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có các quy định để phân biệt giữa người bị buộc tội với người tự bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa. Chúng ta có thể thấy điều này trong một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tranh tụng như sau:
Tại khoản 3 Điều 309 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”; Điều 310 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”; khoản 2 Điều 311 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”... Điều này cho thấy, các quy định nêu trên chưa có sự phân biệt giữa bị cáo với người tự bào chữa. Trong các trường hợp này, nếu bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa thì rõ ràng quyền tranh tụng của bị cáo có sự hạn chế nhất định.
Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp người tự bào chữa thực hiện quyền thay đổi vai trò bào chữa trong quá trình tố tụng
Trên thực tế, có những trường hợp, người bị buộc tội nhờ người bào chữa cho mình nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, người bị buộc tội muốn thay đổi, tự mình thực hiện việc bào chữa. Hoặc trường hợp ngược lại, ban đầu, người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, người bị buộc tội muốn nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. Bên cạnh đó, có những trường hợp, người bị buộc tội muốn sử dụng đồng thời quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể hoặc hướng dẫn về việc thực hiện những quyền này, do đó, trên thực tế, người bị buộc tội không biết thực hiện những quyền này như thế nào.
Năm là, thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS còn có những khó khăn, vướng mắc
Như đã đề cập ở trên, quyền tự bào chữa trong TTHS là quyền cơ bản được Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền này hầu như chưa được thực hiện trên thực tế. Điều đó cho thấy không chỉ có những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành mà còn có những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS.
Xét về phía người bị buộc tội, có thể nhận thấy, khi một người muốn thực hiện quyền tự bào chữa thì bản thân họ không biết thực hiện quyền này như thế nào, đâu là giới hạn của nó. Việc thực hiện quyền tự bào chữa có được bảo đảm một cách triệt để và có cơ chế bảo vệ cho việc thực hiện quyền đó hay không. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, người bị buộc tội hoàn toàn có thể tự bào chữa cho mình và không cần nhờ người khác bào chữa. Thậm chí, một số trường hợp, việc tự bào chữa của người bị buộc tội có thể mang lại hiệu quả nhiều hơn so với việc nhờ người bào chữa. Điều này cho thấy, tính hiệu quả trong thực tế đối với quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS chưa đạt được.
Xét về phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), các cơ quan THTT cũng rất lúng túng khi người bị buộc tội yêu cầu thực hiện quyền tự bào chữa. Thực tế cho thấy, các cơ quan THTT gặp khó khăn ngay từ giai đoạn giải thích pháp luật và hướng dẫn về việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Điều này xuất phát từ các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa hiện nay chưa cụ thể, chi tiết, đặc biệt, hiện chưa có cơ chế thực thi và kiểm sát, giám sát đối với việc thực hiện quyền tự bào chữa. Do vậy, việc phổ biến rộng rãi và tạo điều kiện để quyền tự bào chữa phát huy hiệu quả trong thực tiễn còn có nhiều hạn chế.
Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn hiện nay, tác giả xin nêu một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, đồng thời, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS, trong đó tập trung giải quyết một số nội dung sau:
(i) Quy định cụ thể thế nào là quyền tự bào chữa và nội dung cụ thể của việc tự bào chữa trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng, trong đó, cần quy định rõ phạm vi, giới hạn của quyền tự bào chữa, cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự bào chữa trong thực tiễn.
(ii) Cần có các quy định cụ thể về người tự bào chữa, để phân biệt với người bào chữa nói chung, tức là, cần quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và những việc người tự bào chữa được thực hiện trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng.
(iii) Cần có các quy định phân biệt người bị buộc tội và người tự bào chữa trong vụ án hình sự. Trong trường hợp người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa, người bị buộc tội vừa có quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội nhưng đồng thời có quyền, nghĩa vụ của người tự bào chữa và quyền, nghĩa này bình đẳng trước pháp luật.
(iv) Quy định cụ thể đối với trường hợp người tự bào chữa thực hiện quyền thay đổi vai trò bào chữa trong quá trình tố tụng. Theo đó, trong quá trình tố tụng, người tự bào chữa có thể thay đổi vai trò bào chữa bằng cách nhờ người bào chữa cho mình, chấm dứt vai trò của người bào chữa để tự mình bào chữa hoặc sử dụng đồng thời quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa ở bất cứ giai đoạn nào.
(v) Cần có cơ chế thực thi cho việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Các cơ quan THTT cần giải thích, hướng dẫn cụ thể về quyền tự bào chữa và việc thực hiện quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội, khuyến khích, tạo điều kiện để người bị buộc tội có thể thực hiện quyền tự bào chữa một cách dễ dàng nhất.
(vi) Cần có các quy định về kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Theo đó, việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS phải được giám sát chặt chẽ trong khuôn khổ pháp luật. Người bị buộc tội có thể thực hiện quyền tự bào chữa một cách đầy đủ và toàn diện nhất trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh đó, các cơ quan THTT thực hiện theo đúng thủ tục, trình tự được pháp luật quy định, một mặt, cho phép người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa theo quy định pháp luật, mặt khác, không để xảy ra tình trạng hạn chế quyền hoặc mở rộng quyền trong thực tế.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS:
(i) Các cơ quan, tổ chức, cá nhân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS để tất cả người dân đều hiểu và nhận thức sâu rộng về quyền này.
(ii) Trong quá trình tố tụng, các cơ quan THTT cần đẩy mạnh việc giải thích, hướng dẫn để người bị buộc tội có thể dễ dàng tiếp cận và thực hiện được quyền tự bào chữa của mình có hiệu quả trên thực tế.
(iii) Cần có sự công khai, minh bạch trong việc thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS.
(iv) Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm về việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Theo đó, những hành vi như lạm quyền, lợi dụng quyền tự bào chữa để vi phạm pháp luật của người bị buộc tội hoặc những hành vi như hạn chế quyền, mở rộng quyền từ phía cơ quan THTT cần được xử lý nghiêm trên thực tế.
Như vậy, quyền tự bào chữa trong TTHS là quyền cơ bản của con người được Hiến pháp và pháp luật về TTHS ghi nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định về quyền tự bào chữa trong TTHS ở nước ta chưa thực sự đi vào đời sống xã hội. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, có những hạn chế, bất cập về các quy định pháp luật hiện hành và có những vướng mắc, khó khăn từ thực tiễn thực hiện pháp luật. Việc thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền tự bào chữa trong thực tiễn TTHS ở nước ta hiện nay.
Sở Tư pháp Vĩnh Phúc