Trước bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, giao lưu thương mại ngày càng phát triển với nhiều phương thức hợp tác để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho các bên. Nhưng trên thực tế, không phải hợp đồng hợp tác kinh doanh nào cũng có kết quả tốt đẹp, chính vì vậy, nhiều thiết chế giải quyết tranh chấp ra đời để mang lại công bằng cho các bên. Hiện nay, giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại bằng hòa giải đang dần trở thành một phương thức được ưa chuộng trên thế giới ngoài phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống là Tòa án và trọng tài bởi những lợi ích mà nó mang lại, như: (i) Tiết kiệm thời gian, chi phí; (ii) Kiểm soát được kết quả đầu ra, tăng khả năng tự nguyện thi hành; (iii) Duy trì được quan hệ làm ăn giữa các bên; (iv) Mức độ bảo mật thông tin cao.
Nếu như giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài từ rất sớm đã có công cụ pháp lý điều chỉnh là Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (Công ước New York) thì trong lĩnh vực hòa giải, tháng 12/2018, Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước thỏa thuận quốc tế về giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải (Công ước Singapore).
Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, việc phát triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đã được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra nhiệm vụ “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài”. Trong khi về hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam có thể coi là đã tiệm cận được với quốc tế khi ta đã tham gia Công ước New York, thể chế pháp luật dần dần được hoàn thiện thì nhiệm vụ tiếp theo đặt ra đối với yêu cầu cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là hoàn thiện pháp luật về hòa giải tạo thêm phương thức giải quyết tranh chấp để doanh nghiệp, nhà đầu tư lựa chọn. Hiện nay, cơ sở pháp lý trong nước về hòa giải thương mại đã có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại (Nghị định số 22/2017/NĐ-CP) nhưng để hợp tác quốc tế trong việc công nhận, thi hành kết quả hòa giải thương mại thì lại chưa có điều ước quốc tế điều chỉnh. Vì vậy, việc tham gia Công ước Singapore sẽ là giải pháp kịp thời khắc phục tồn tại nêu trên.
Một trong những công việc chuẩn bị cho việc ký, tham gia một điều ước quốc tế đó là hoạt động đánh giá tính tương thích của điều ước quốc tế với pháp luật có liên quan của Việt Nam[1]. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ đưa ra một số so sánh và đánh giá sơ bộ về các quy định cơ bản của Công ước Singapore với quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam để trả lời cho câu hỏi thể chế Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu của Công ước Singapore trong trường hợp chúng ta quyết định gia nhập Công ước này.
1. Về phạm vi giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
1.1. Phạm vi áp dụng
Công ước Singapore không đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại” nhưng khoản 1 Điều 1 Công ước đưa ra quy định tham gia điều kiện tham gia thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại có tính quốc tế nếu tại thời điểm ký kết:
(i) Ít nhất hai bên tham gia thỏa thuận giải quyết tranh chấp có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau;
(ii) Quốc gia mà các bên tham gia thỏa thuận giải quyết tranh chấp có địa điểm kinh doanh khác với quốc gia mà một phần đáng kể các nghĩa vụ theo thỏa thuận giải quyết tranh chấp được thực hiện hoặc quốc gia mà nội dung của thỏa thuận giải quyết tranh chấp có mối quan hệ gắn bó nhất và loại trừ áp dụng đối với một số thỏa thuận giải quyết tranh chấp liên quan đến mục đích tiêu dùng, gia đình, thừa kế, lao động.
Như vậy, tính quốc tế sẽ được xem xét căn cứ vào địa điểm kinh doanh. Công ước Singgapore yêu cầu cả hai bên tham gia thỏa thuận hòa giải phải thực hiện hoạt động kinh doanh (hoạt động thương mại).
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Điều 2 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP cũng giới hạn phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại chỉ áp dụng với 03 loại tranh chấp: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại.
Do đó, chỉ có loại tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Công ước. Điều này có nghĩa phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại rộng hơn so với Công ước Singapore.
Ngoài ra, tính quốc tế của thỏa thuận giải quyết tranh chấp hay có thể coi là yếu tố nước ngoài của thỏa thuận giải quyết tranh chấp chưa được pháp luật Việt Nam quy định.
1.2. Loại trừ áp dụng
Để làm rõ hơn phạm vi áp dụng, khoản 2 và 3 Điều 1 Công ước Singapore quy định Công ước không áp dụng đối với các thỏa thuận giải quyết tranh chấp:
- Là kết quả giải quyết tranh chấp phát sinh từ các giao dịch mà một trong các bên tham gia (người tiêu dùng) có mục đích cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình;
- Liên quan đến pháp luật gia đình, thừa kế hoặc lao động;
- Đã được Tòa án công nhận hoặc đạt được trong quá trình tố tụng tại Tòa án hoặc đang được thi hành như phán quyết của Tòa án tại quốc gia có Tòa án đó;
- Được ghi nhận và có thể được thi hành như một phán quyết trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 416 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Kết quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải. Với quy định này, các kết quả hòa giải thành trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc được thể hiện dưới dạng quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) hoặc trong quá trình trọng tài giải quyết tranh chấp thể hiện dưới dạng quyết định của Hội đồng trọng tài công nhận sự thoả thuận của các bên (Điều 58 Luật Trọng tài thương mại năm 2010), không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều này.
- Pháp luật nội dung của Việt Nam cũng quy định các vụ việc về gia đình và thừa kế là các vụ việc dân sự, không thuộc phạm vi thương mại.
- Các vụ việc về lao động có quy định riêng về cơ chế hòa giải do hòa giải viên lao động thực hiện trong Bộ luật Lao động năm 2012 và Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động.
Ngoài ra, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ hướng dẫn Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã quy định cơ chế riêng về hòa giải đối với tranh chấp giữa người kinh doanh hàng hóa dịch vụ với người tiêu dùng, trong đó tiêu chuẩn hòa giải viên và cơ quan tổ chức có thẩm quyền thành lập tổ chức hòa giải có nhiều điểm khác biệt so với quy định của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng tách biệt hòa giải thương mại và hòa giải tranh chấp với người tiêu dùng. Rà soát, đối chiếu những quy định trên, có thể đánh giá pháp luật Việt Nam tương thích với quy định về các trường hợp Công ước không áp dụng.
1.3. Về các định nghĩa
1.3.1. Địa điểm kinh doanh
Xuất phát từ việc xác định tính quốc tế của thỏa thuận hòa giải được căn cứ vào địa điểm kinh doanh của các bên nên khoản 1 Điều 2 Công ước Singapore đưa ra căn cứ để xác định địa điểm kinh doanh trong trường hợp một bên có nhiều địa điểm kinh doanh hoặc không có địa điểm kinh doanh. Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về vấn đề này. Trong giải quyết tranh chấp thương mại, để xác định thẩm quyền giải quyết, pháp luật Việt Nam căn cứ trên địa chỉ, nơi đóng trụ sở của doanh nghiệp. Rà soát các quy định pháp luật liên quan cho thấy, pháp luật hiện hành ở nước ta chỉ có quy định về địa điểm giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, theo điểm d khoản 2 Điều 35 Luật Thương mại năm 2005: Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.
1.3.2. Thỏa thuận giải quyết
Công ước Singapore quy định thỏa thuận giải quyết tranh chấp được ghi lại bằng hình thức văn bản. Công ước Singapore cũng công nhận hình thức điện tử với điều kiện thông tin có thể truy cập được.
Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP quy định: Kết quả hòa giải thành là thỏa thuận giữa các bên tranh chấp về việc giải quyết một phần hoặc toàn bộ tranh chấp phát sinh và khoản 1 Điều 15 Nghị định này quy định: Khi đạt được kết quả hòa giải thành các bên lập văn bản về kết quả hòa giải thành. Như vậy, pháp luật Việt Nam phù hợp với Công ước Singapore. Tuy nhiên, về thỏa thuận giải quyết tranh chấp dưới hình thức điện tử, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan của Việt Nam chưa quy định. Mặc dù vậy, nếu có thỏa thuận giải quyết tranh chấp dưới hình thức điện tử thì căn cứ Điều 12 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thỏa thuận này có giá trị như văn bản với điều kiện thông tin có thể truy cập và sử dụng để tham khảo khi cần thiết[2].
1.3.3. Hòa giải
Khoản 3 Công ước Singapore quy định “hòa giải” là một thủ tục, bất kể tên gọi được sử dụng hoặc căn cứ mà thủ tục này được thực hiện, nhờ đó các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp một cách thân thiện với sự hỗ trợ của bên thứ ba (hòa giải viên) không có thẩm quyền áp đặt giải pháp cho các bên tranh chấp.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định: “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về cơ bản tương ứng với cách hiểu và giải thích thuật ngữ này của Công ước.
1.4. Về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thương mại
Điều 3 Công ước Singapore quy định: Mỗi bên tham gia Công ước phải thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp theo các quy tắc về thủ tục của mình và với các điều kiện được quy định tại Công ước này. Điều này đồng nghĩa với việc Công ước Singapore không quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thương mại mà để pháp luật của các quốc gia thành viên quyết định.
Theo quy định tại Điều 416 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các quy định tại Chương XXXIII - Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được áp dụng đối với công nhận kết quả hòa giải thương mại. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục này chỉ áp dụng đối với kết quả hòa giải thương mại do các hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam, không bao gồm kết quả hòa giải thương mại do hòa giải viên nước ngoài, tổ chức hòa giải thương mại được thành lập và hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam. Do tính chất quốc tế hay có thể coi là yếu tố nước ngoài của thỏa thuận giải quyết tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Singapore lại căn cứ vào địa điểm kinh doanh của các bên mà không căn cứ vào hòa giải viên, tổ chức hòa giải thương mại nên một thỏa thuận giải quyết tranh chấp có thể xảy ra hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp do hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam thực hiện, khi đó, Chương XXXIII - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được áp dụng. Trong trường hợp này, quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với yêu cầu của Công ước Singapore.
- Trường hợp thứ hai: Thoả thuận giải quyết tranh chấp được hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam thực hiện thì để thỏa thuận được thi hành tại Việt Nam cần phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành. Tuy nhiên, thỏa thuận giải quyết tranh chấp không thuộc loại quyết định được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bởi lẽ, quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (ngoài Tòa án) chỉ được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu quyết định đó là về nhân thân hoặc hôn nhân và gia đình. Như vậy, trong trường hợp này, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc công nhận và cho thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Singapore.
1.5. Về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thương mại
1.5.1. Điều kiện về hồ sơ yêu cầu
Quy định tại khoản 1 Điều 4 Công ước Singapore có thể hiểu bên yêu cầu phải cung cấp đủ các giấy tờ sau trong hồ sơ gửi đến cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên Công ước Singapore: (i) Thỏa thuận giải quyết tranh chấp được các bên ký; (ii) Chứng cứ là thỏa thuận giải quyết tranh chấp đạt được thông qua hòa giải, như chữ ký của hòa giải viên, văn bản do hòa giải viên ký khẳng định rằng việc hòa giải đã được thực hiện; chứng thực của tổ chức quản lý hòa giải hoặc bất kỳ chứng cứ nào khác mà cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu chấp nhận.
Ngoài ra, trong trường hợp trao đổi thông tin điện tử thì các điều kiện nêu trên được thỏa mãn nếu có biện pháp đáng tin cậy được sử dụng để nhận dạng các bên hoặc hòa giải viên và để khẳng định ý định của người này với thông tin được chứa đựng trong trao đổi thông tin điện tử đó (khoản 2)
Về vấn đề này, Điều 418 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định một bên yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án phải có đơn yêu cầu và văn bản về kết quả hòa giải thành theo quy định pháp luật có liên quan. Như vậy, đối với yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thương mại thì văn bản về kết quả hòa giải thành có chữ ký của các bên và hòa giải viên theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. So với quy định tại Điều 4 Công ước Singapore thì quy định văn bản về kết quả hòa giải thành của pháp luật Việt Nam hẹp hơn. Theo pháp luật Việt Nam, văn bản kết quả hòa giải thành được Tòa án công nhận phải có chữ ký hai bên và hòa giải viên, không quy định thêm hình thức nào khác thì Công ước Singapore lại không quy định bắt buộc hòa giải viên phải ký vào thỏa thuận giải quyết tranh chấp mà quy định một cách linh hoạt, theo đó, các bên có thể chứng minh việc này bằng văn bản do hòa giải viên ký khẳng định rằng việc hòa giải đã được thực hiện (điểm ii.b khoản 1 Điều 4) và Công ước Singapore còn chấp nhận cả những chứng cứ giao dịch điện tử thỏa mãn các điều kiện tại khoản 2 Điều 4.
1.5.2. Điều kiện về chủ thể và nội dung
Một thỏa thuận giải quyết tranh chấp không vi phạm một trong sáu căn cứ để từ chối tại Điều 5 Công ước Singapore thì sẽ được xem xét công nhận. Trong khi đó, Điều 417 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định các điều kiện để được Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, cụ thể các điều kiện sau:
(i) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự;
(ii) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải, trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý;
(iii) Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận;
(iv) Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.
Đối chiếu với quy định tương ứng tại Điều 5 Công ước Singapore thì Công ước yêu cầu nhiều điều kiện cần đáp ứng để thỏa thuận giải quyết tranh chấp được công nhận như các điều kiện về nội dung, hiệu lực của thỏa thuận (điểm b khoản 1); thực hiện thỏa thuận (điểm c khoản 1), hòa giải viên (điểm e, f) và pháp luật áp dụng (điểm b khoản 2). Cũng cần đặc biệt lưu ý là quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng chỉ được áp dụng đối với các thỏa thuận giải quyết tranh chấp do hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam thực hiện.
1.6. Đơn hoặc yêu cầu song song
Điều 6 Công ước Singapore quy định, khi có đơn hoặc yêu cầu liên quan đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp gửi đến Tòa án, hội đồng trọng tài và cơ quan có thẩm quyền khác thì cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên sẽ tạm dừng việc ra quyết định công nhận hoặc yêu cầu bên đề nghị phải thực hiện biện pháp bảo đảm khi đơn hoặc yêu cầu này có thể ảnh hưởng đến việc xem xét yêu cầu công nhận. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về nội dung này.
2. Đánh giá
Sau khi phân tích, rà soát và đối chiếu các quy định của Công ước Singapore và quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam, có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam vẫn còn khoảng trống và có một số điểm khác biệt so với quy định của Công ước Singapore, cụ thể là những vấn đề sau:
Thứ nhất, phạm vi giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải của pháp luật Việt Nam rộng hơn so với phạm vi điều chỉnh của Công ước Singapore. Nếu Công ước Singapore không áp dụng đối với một trong bên tham gia vì mục đích cá nhân, hoặc hộ gia đình thì pháp luật Việt Nam không phân biệt chỉ cần một bên có hoạt động thương mại.
Thứ hai, về đối tượng điều chỉnh của Công ước Singapore, pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc công nhận và cho thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Singapore nếu thỏa thuận do hòa giải viên nước ngoài, tổ chức hòa giải ở nước ngoài không đăng ký hoạt động tại Việt Nam thực hiện.
Thứ ba, về điều kiện, cơ chế công nhận kết quả hòa giải thương mại, trong khi Công ước Singapore chỉ quy định chung về hồ sơ yêu cầu thi hành hoặc viện dẫn thỏa thuận giải quyết tranh chấp phải được các bên ký và có bằng chứng về việc thỏa thuận đạt được thông qua hòa giải và quy định bổ sung bằng các trường hợp từ chối yêu cầu thì pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành. Hai cách tiếp cận khác nhau dẫn đến còn một số điểm khác biệt như về hình thức của thỏa thuận giải quyết tranh chấp; nghĩa vụ chứng minh của người phải thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp; vấn đề xác định pháp luật áp dụng đối với thỏa thuận giải quyết tranh chấp và pháp luật áp dụng đối với hòa giải viên hoặc hòa giải nói chung, đặc biệt trong trường hợp việc hòa giải có tính quốc tế hay yếu tố nước ngoài.
Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
[1]. Điều 45 Luật Điều ước quốc tế năm 2016.
[2]. Điều 12 Luật Giao dịch điện tử năm 2005.