Tuy nhiên, cùng với rà soát, kịp thời bổ sung những điều kiện bảo đảm cho hoạt động của đại biểu Quốc hội, phải hết sức coi trọng công tác theo dõi, nhận xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội. Phải làm sao để việc nhận xét, đánh giá hoạt động đại biểu nhằm sàng lọc cho nhiệm vụ tiếp theo của Quốc hội hạn chế tối đa những “ông nghị”, “bà nghị” chưa làm hết trách nhiệm và thiếu bản lĩnh trong quá trình thực hiện quyền, nhiệm vụ theo luật định.
Dõi theo các hoạt động tại nghị trường Quốc hội có thể thấy, số đại biểu “đăng đàn” phát biểu tỏ rõ quan điểm về những vấn đề lớn của đất nước, đề xuất cơ chế, chính sách, chế định của pháp luật để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; dám chất vấn đối với cơ quan, cá nhân về những sai phạm khiến cử tri và nhân dân bức xúc chiếm tỷ lệ còn quá khiêm tốn. Số đại biểu có trách nhiệm và bản lĩnh ấy thường là đại biểu chuyên trách và đại biểu ở các tổ chức chính trị, xã hội. Một thực tế đáng buồn là rất nhiều đại biểu Quốc hội đang đảm đương chức danh cấp ủy ở địa phương, có người là Ủy viên Trung ương Đảng, nhưng hầu như không thấy “đăng đàn” chất vấn hoặc nếu có phát biểu thì cũng chung chung, không thể hiện rõ quan điểm trước vấn đề “nóng” trong quản lý nhà nước... Có đại biểu Hội đồng nhân dân cả nhiệm kỳ không hề phát biểu[2].
1. Một số vấn đề về đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội hiện nay
Thứ nhất, chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể, các buổi thảo luận chuyên đề, trình dự án luật về hoạt động xây dựng pháp luật
Với những dự án văn bản quan trọng, các đại biểu thảo luận tại các phiên họp toàn thể, các buổi thảo luận chuyên đề về hoạt động xây dựng pháp luật được nâng lên rõ rệt. Các đại biểu Quốc hội thẳng thắn nói tiếng nói cử tri, bày tỏ ý kiến, phản ánh, đề nghị của các cử tri mà mình có trách nhiệm truyền tải và bảo vệ. Các đại biểu đã có tính độc lập cao, tranh luận sôi nổi, bám sát ý kiến, yêu cầu của cử tri. Nhiều đại biểu đã phát biểu riêng cho hoạt động lập pháp, phát biểu không chỉ với tư cách chuyên gia cấp cao trong lĩnh vực pháp luật mà còn với tấm lòng nhiệt huyết, lương tri đại biểu trong việc phản ánh ý chí của cử tri. Bên cạnh đó, còn có những đại biểu mạnh dạn đề xuất dự án luật với tư cách cá nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của đại biểu Quốc hội cũng tồn tại nhiều hạn chế. Xây dựng luật là quyền hiến định đối với đại biểu Quốc hội, nhưng trên thực tế, số lượng đề xuất, kiến nghị của đại biểu về chương trình xây dựng luật gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn ít. Cùng với quá trình soạn dự thảo luật, công việc khởi đầu này thường giao và phụ thuộc nhiều vào cơ quan hành pháp. Nó tạo nên sự thụ động, trông chờ của Quốc hội vào phía các nhà quản lý hành chính. Đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm còn nhiều, bộ phận giúp việc hạn chế, việc thuê khoán các chuyên gia chưa phổ biến, quan niệm đại biểu là một “nghề” cần chuyên sâu đang hình thành, nên rất khó để yêu cầu đại biểu có thể hoàn tất quyền hiến định quan trọng này. Thực tế còn có hiện tượng, đại biểu Quốc hội tiến hành thảo luận ở tổ, đoàn và tại phiên họp toàn thể mà không “ngó ngàng” gì tới tài liệu; những ý kiến trái chiều hoặc tranh luận chủ yếu tập trung vào một số đại biểu có vị trí tương đối độc lập với nhánh hành pháp. Một số đại biểu vẫn than phiền là tài liệu quá nhiều, nhưng có thể do không biết cách xử lý nên vẫn thiếu thông tin để chuẩn bị cho phiên họp và hậu quả là không phát biểu ý kiến một lần nào. Bên cạnh đó, trong kỳ họp, nhiều đại biểu Quốc hội đã chuẩn bị kĩ những ý kiến để tham gia, viết thành bài phát biểu, nhưng cũng vì thế mà bị lệ thuộc vào bài viết, thiếu khả năng ứng phó tức thời, nên đã xảy ra tình trạng trùng lặp ý kiến.
Thứ hai, chất lượng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội
Hoạt động chất vấn luôn có sự đổi mới để nâng cao chất lượng như: Chất vấn theo nhóm vấn đề, tăng thời gian chất vấn tại hội trường, hạn chế thấp nhất thời gian trả lời bằng văn bản, nâng cao kỹ năng hỏi - đáp trong các buổi chất vấn, đảm bảo đúng nội dung, ngắn gọn, nghiêm túc và có tính trách nhiệm. Số lượng và chất lượng các câu hỏi chất vấn ngày càng được nâng cao, bám sát yêu cầu của cử tri. Việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, theo dõi việc thực hiện lời hứa của chủ thể trả lời chất vấn được thực hiện đều đặn. Hình thức giám sát tối cao qua chất vấn của Quốc hội có nhiều đổi mới, đã tăng thời gian chất vấn từ 2,5 ngày lên 3 ngày. Tại phiên chất vấn, không chỉ kiến thức, sự am hiểu mà cả kỹ năng phát biểu của các đại biểu Quốc hội cũng tốt hơn, các đại biểu không chỉ chất vấn, tranh luận với Bộ trưởng, các thành viên Chính phủ mà còn thẳng thắn giơ biển xin tranh luận lại với chính đại biểu Quốc hội khác...
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội vẫn còn những hạn chế. Suốt quá trình họp, nhiều đại biểu không hề chất vấn, mang tư tưởng ỷ lại để lâu thành thói quen. Các đại biểu chất vấn thì nêu lên rất nhiều câu hỏi nhưng không phải tất cả đều đúng với nghĩa chất vấn. Chất lượng câu hỏi còn hạn chế, chưa xứng tầm, đôi khi câu hỏi còn dài dòng, không rõ trọng tâm hay chỉ là những câu hỏi thường yêu cầu cung cấp thông tin về một vấn đề nào đó. Các câu hỏi thường chỉ xuất phát từ lĩnh vực thuộc chuyên ngành của các đại biểu mà chưa tập trung vào những vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm.
Thứ ba, chất lượng hoạt động quyết định phê chuẩn những vấn đề quan trọng của Quốc hội
Trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bên cạnh kế hoạch năm, Quốc hội ban hành các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh kế - xã hội 5 năm, làm căn cứ phát triển cho cả nhiệm kỳ. Đại biểu Quốc hội cũng dành thời gian tập trung đánh giá khách quan, toàn diện, sâu sắc những mặt tích cực và những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện từng mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế; xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, kết quả công tác điều hành của Chính phủ, các ngành, các cấp để từ đó đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về chính sách, điều hành cho từng năm sau đó.
Trong những năm gần đây, ngay cả một số nhà nghiên cứu người nước ngoài về Việt Nam, vốn khắt khe trong đánh giá cũng nhận xét rằng, đại biểu Quốc hội Việt Nam ngày càng thực quyền hơn, không còn nhiều đặc tính của một Quốc hội “con dấu” nữa[3]. Kỳ họp đã tạo ra một “không khí ở hội trường Quốc hội”, những vấn đề được giải quyết ở hành lang Quốc hội đã kéo theo rất nhiều vấn đề khác của đất nước cũng được giải quyết triệt để. Tuy nhiên, hoạt động này cũng vẫn còn những hạn chế nhất định. Theo kết quả thăm dò dư luận đánh giá về chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, chỉ có 30% số được hỏi đánh giá tốt, 38% đánh giá tương đối tốt, 20% đánh giá bình thường, 4% đánh giá là yếu và 8% cho rằng không biết[4]. Một số đại biểu chỉ biết thông tin qua “biển xanh - nhà biệt thự - nước biển trên báo chí” để truy tìm nguyên nhân.
Thứ tư, chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp nhận ý kiến giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân
Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp nhận ý kiến giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân ngày càng được chú trọng và có những đổi mới về nội dung cũng như hình thức tổ chức, qua đó giúp đại biểu Quốc hội có thể thu nhận được ý kiến mang tính chất chuyên sâu về những vấn đề bức xúc hiện nay của cử tri và nhân dân. Theo đó, chất lượng của hoạt động tiếp xúc cử tri nhìn chung đã có chuyển biến đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc tiếp nhận đơn thư của công dân bảo đảm tính dân chủ, công khai và thuận tiện cho công dân thông qua nhiều hình thức như qua cơ quan truyền thông, qua hoạt động tiếp công dân, tiếp xúc cử tri. Chọn những nơi có diễn biến phức tạp và bức xúc về khiếu nại, tố cáo để giám sát.
Công tác tiếp công dân tuy có nhiều cố gắng, nhưng hiệu quả chưa cao; chưa bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa việc tiếp công dân với việc nghiên cứu, xử lý đơn, thư và với công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các đại biểu Quốc hội ở trung ương hầu như không tham gia việc tiếp công dân định kỳ tại địa phương. Công tác theo dõi, đôn đốc, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết các đơn, thư đã chuyển cũng chưa được tiến hành thường xuyên; nhiều trường hợp mới chỉ dừng lại ở việc chuyển đơn mà chưa chú trọng xem xét, đánh giá việc giải quyết[5].
Hoạt động thu thập, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng như việc giải quyết các ý kiến còn bất cập. Một số đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc cử tri không thường xuyên; đại biểu chưa chủ động tiến hành các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, khi tiếp nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa chủ động nghiên cứu, chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri chất lượng chưa cao, chưa phân loại được đâu là ý kiến bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của cử tri, đâu là ý kiến đóng góp về chủ trương, chính sách pháp luật và đâu là ý kiến, kiến nghị cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành trung ương. Đối với việc xem xét, giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc trả lời của một số cơ quan còn chậm, còn thiếu, chưa đúng với nội dung mà cử tri kiến nghị, có những vấn đề còn chưa cụ thể, chưa nêu được lộ trình giải quyết đối với những vấn đề được nêu ra, văn bản trả lời còn nặng về giải thích cơ chế, chính sách[6].
2. Sự cần thiết xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội
Hiện nay, có nhiều giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, về xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội còn thiếu vắng, do đó, cần khẩn trương đưa vào quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, tại các văn bản luật của Việt Nam, chưa có quy định chính thức nào quy định về tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội mà chỉ có quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Do đó, trong thực tiễn có hiện tượng đại biểu ngủ gật, chơi điện tử, xem điện thoại, nói chuyện riêng trong khi làm nhiệm vụ đại biểu tại Hội trường. Trong những kỳ họp gần đây xảy ra khá nhiều chuyện đáng tiếc liên quan tới việc đại biểu Quốc hội “bấm nút hộ” hoặc vắng mặt trong các phiên họp tại hội trường, đặc biệt, có đại biểu cả nhiệm kỳ không phát biểu. Đó là những nội dung được cử tri hết sức quan tâm, bởi lẽ những “căn bệnh” trên ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Quốc hội.
Chính việc chưa có tiêu chí, quy chế gắn trách nhiệm từng đại biểu với hoạt động, nhiệm vụ đại biểu của mình, nên đại biểu Quốc hội năng nổ hoạt động dễ bị chỉ lỗi, phán xét; đại biểu “im lặng” trong suốt cả nhiệm kỳ lại không chịu “chế tài” gì. Điều đó tạo sức ì, ngại va chạm, ngại tư duy, học hỏi cho một số đại biểu. Do vậy, cần phải xác định trách nhiệm trước nhân dân đối với những đại biểu chưa thực hiện “tròn vai” của mình.
Thứ hai, tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc hội tạo cơ sở pháp lý, chính trị để giám sát, đại biểu hoạt động có hiệu quả cần được biểu dương, khen thưởng xứng đáng, tạo động lực để họ hăng hái tham gia đóng góp ý kiến, cống hiến vì lợi ích chung. Công chức, viên chức, cán bộ Đảng viên hằng năm vẫn có đánh giá, phân loại, xếp loại. Do đó, nếu đại biểu Quốc hội, những người đại diện cho cử tri lại không được đánh giá chất lượng hoạt động thì sẽ khó khuyến khích những đại biểu tích cực trong việc hoàn thiện các dự án luật, làm lợi cho xã hội, đất nước.
Thứ ba, tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc hội sẽ là căn cứ (thang đánh giá đại biểu) để nhắc nhở, khiển trách, để Đại biểu tự điều chỉnh, hoàn thiện mình.
Thứ tư, việc xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội sẽ là tiền đề đảm bảo đánh giá đại biểu Quốc hội tốt về mặt định tính và định lượng. Rất nhiều quy định trong lĩnh vực này được quy định rải rác trong các văn bản như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Phòng, chống tham nhũng. Thậm chí có những quy định, yêu cầu phải hiểu theo cách dẫn chiếu tới các nghị định và thông tư.
Dù chúng ta chưa có quy định chính thức về tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc Hội và từ “đánh giá” gần như không xuất hiện ở các văn bản, nhưng chúng ta vẫn có đánh giá đại biểu Quốc hội. Việc đánh giá này chủ yếu được thông qua sự tín nhiệm của nhân dân. Có đánh giá chính thức và phi chính thức: Đánh giá chính thức được thể hiện qua các báo cáo, qua việc tiếp xúc cử tri, lấy phiếu tín nhiệm, bầu cử, bãi nhiệm, hội nghị…; còn về đánh giá phi chính thức, chẳng hạn như qua báo chí đánh giá chung toàn khóa hay của từng kỳ họp, từng đại biểu… Dù khó nhưng chúng ta cần phải xây dựng được bộ tiêu chí đảm bảo cả về mặt định tính và định lượng[7].
Thứ năm, đại biểu Quốc hội khi hướng đến tính chuyên nghiệp thì càng đòi hỏi phải có những nguyên tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết đã từng nói: Nghề nào cũng có sự dụng công. Đại biểu Quốc hội cũng như thợ mộc, thợ nề, phải tâm huyết với nghề, cố gắng tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp và luôn sáng tạo thì mới thành công được[8]. Hiện nay, trên thế giới có một xu hướng là xây dựng các bộ quy tắc ứng xử (ở một số nước gọi là bộ quy tắc đạo đức) dành cho công chức nói chung và các nghị sỹ nói riêng. Hiện Việt Nam chưa có bộ quy tắc ứng xử dành cho các đại biểu Quốc hội cũng như đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định pháp luật về tiêu chuẩn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội có thể thấy một số quy định đã mang tính chất các quy tắc ứng xử tương tự như ở nhiều quốc gia[9].
Thứ năm, thông qua việc xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội, cử tri mới thực sự được thực hiện quyền giám sát đại biểu Quốc hội. Qua đó họ có thể nắm được thái độ, lập trường của đại biểu do mình bầu ra. Đây chính là kênh thông tin chính xác, khoa học nhằm đánh giá chính thức để cử tri yêu cầu áp dụng chế tài Hiến pháp đối với chủ thể vi phạm. Qua đó, tạo ra sự minh bạch hơn trong quá trình hoạt động của Quốc hội trong thời gian tới.
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam