Abstract: At present, mobile hearing is considered one of effective methods to legal propaganda dissemination, education of people's mass. In a rule of law state which we are directed forward - a state in which freedom and dignity of humans shall be placed at the top, whenever he/she is accused. However, a question should be raised, whether or not to maintain mobile hearing criminal cases.
1. Xét xử lưu động vụ án hình sự ở Việt Nam, nhìn từ góc độ lý luận
Hiện nay, từ Hiến pháp đến các văn bản pháp luật như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân… đến các văn bản pháp luật khác có liên quan vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về “xét xử lưu động vụ án hình sự”. Pháp luật cũng chưa có văn bản quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xét xử lưu động vụ án hình sự, chưa đưa ra các tiêu chí để thực hiện hoạt động xét xử lưu động vụ án hình sự… Tuy nhiên, thực tế hoạt động xét xử lưu động vẫn thường xuyên diễn ra như một hoạt động thường kỳ của Tòa án với mục đích để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL).
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS), diễn ra sau các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động TTHS, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành: “Áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử; đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên phán xét về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi, có tội của bị cáo và cuối cùng, tuyên bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục”.
Điều 257, Điều 423 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định chung về phòng xử án thể hiện: “Phòng xử án phải được bố trí thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình đẳng giữa người thực hành quyền công tố và luật sư, người bào chữa khác”. Đối với việc xét xử người dưới 18 tuổi, khoản 4 Điều 423 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi”. Thông tư số 01/2014/TT-CA ngày 28/4/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành nội quy phiên tòa có quy định: “Phiên tòa được tổ chức tại phòng xử án ở trụ sở Tòa án hoặc ở nơi xét xử lưu động ngoài trụ sở Tòa án (gọi chung là phòng xử án)”. Để triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, ngày 01/4/2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có Công văn số 88/TANDTC-PC về việc triển khai thực hiện mô hình phòng xử án quy định về vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong phiên tòa hình sự. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này cũng chưa có quy định chi tiết, cụ thể về phòng xử án trong xét xử lưu động vụ án hình sự, trình tự, thủ tục xét xử lưu động vụ án hình sự cũng như các tiêu chí khi xét xử lưu động vụ án hình sự, nhưng thực tiễn phiên tòa xét xử lưu động vụ án hình sự vẫn thường xuyên diễn ra.
Đến nay cũng chưa có khái niệm về “phiên tòa xét xử lưu động vụ án hình sự”, nhưng có thể hiểu phiên tòa xét xử lưu động vụ án hình sự là việc Tòa án xét xử công khai vụ án hình sự tại một địa điểm công cộng như trụ sở Ủy ban nhân dân, trường học, sân vận động… nơi vụ án xảy ra, nơi phát sinh mâu thuẫn hoặc nơi cư trú của bị cáo… chứ không phải là tổ chức ở địa điểm xét xử thường xuyên là tại phòng xử án bố trí tại trụ sở Tòa án. Bên cạnh đó, quy định về trình tự, thủ tục tố tụng của vụ án hình sự xét xử lưu động cũng giống như các phiên tòa hình sự bình thường theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kết quả xét xử, bị cáo bị xét xử bằng phiên tòa lưu động vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nếu họ có tội, được ghi nhận trong bản án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cùng các văn bản pháp luật hiện hành không quy định hay phân biệt cụ thể về trình tự, thủ tục xét xử lưu động vụ án hình sự hay phiên tòa lưu động vụ án hình sự. Các văn bản về TTHS trước khi có hai bộ luật này và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không thấy có quy định chính thức nào. Tuy nhiên, căn cứ vào các báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao hàng năm thì việc tổ chức phiên tòa lưu động, nhất là phiên tòa hình sự, đã là một hoạt động thường niên như một thông lệ, để góp phần tuyên truyền, PBGDPL.
Hiện nay, còn có rất nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc có nên hay không nên đưa các vụ án ra xét xử lưu động và những ảnh hưởng, hệ lụy của việc đưa vụ án ra xét xử lưu động đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan. Để làm rõ vấn đề có nên hay không nên xét xử lưu động nói chung, xét xử lưu động vụ án hình sự nói riêng thì cần phải có tổng kết thực tiễn, phân tích, đánh giá những mặt tích cực và những mặt hạn chế của hoạt động tố tụng này. Từ đó, chúng ta mới có thể luật hóa hay không luật hóa hoạt động xét xử lưu động.
2. Xét xử lưu động ở Việt Nam nhìn từ góc độ thực tiễn
Cho đến nay, Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa ban hành văn bản nào hướng dẫn cụ thể về các căn cứ, tiêu chuẩn để lựa chọn, xác định những loại vụ án nào (loại tội phạm nào) cần đưa ra xét xử lưu động. Tuy nhiên, trong rất nhiều văn bản của Tòa án nhân dân tối cao như các báo cáo Quốc hội, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, báo cáo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, thì vấn đề tổ chức các phiên tòa lưu động luôn được quan tâm và gần như gắn chặt với việc lựa chọn, xác định và giải quyết các vụ án trọng điểm của từng Tòa án và của toàn ngành Tòa án. Hơn nữa, việc xét xử lưu động các vụ án hình sự sơ thẩm còn là một tiêu chí chấm điểm thi đua và là một nhiệm vụ được lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao quan tâm để phân bổ kinh phí cho hoạt động này. Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy, mỗi năm, trung bình ngành Tòa án đã tổ chức xét xử khoảng trên 3.000 vụ án lưu động. Hầu hết các vụ án được đưa ra xét xử lưu động là các vụ án về các tội ma túy, mại dâm, giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ, cướp tài sản, trộm cắp tài sản, các vụ án về tham nhũng, buôn lậu…
3. Những mặt tích cực và hạn chế khi đưa vụ án ra xét xử lưu động đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan
3.1. Những hiệu quả tích cực của xét xử lưu động vụ án hình sự
- Thông qua trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa để giáo dục, nâng cao sự hiểu biết của đông đảo quần chúng nhân dân về các quy định của pháp luật, làm cho người dân hiểu được hành vi của bị cáo (hoặc các bị cáo) là vi phạm pháp luật và phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội đó. Từ đó, người dân sẽ có những hành xử chuẩn mực hơn, đúng đắn hơn nếu bản thân mình rơi vào những tình huống tương tự.
- Việc tuyên truyền, PBGDPL tại các phiên tòa lưu động có tác dụng trực tiếp đến những người tham dự hoặc theo dõi phiên tòa, tạo sự quan tâm của đông đảo cộng đồng dân cư trong khu vực hoặc ở địa phương. Giúp cho nhân dân dễ hiểu, dễ nhớ những quy định pháp luật mà họ được nghe trực tiếp. Nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đề cao tính răn đe (trừng trị) và tính giáo dục, thuyết phục của phiên tòa nói chung và trong bản án, quyết định của Tòa án nói riêng.
- Việc xét xử lưu động công khai còn thể hiện sự quyền uy, nghiêm minh của pháp luật để người dân có ý thức tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào lẽ phải, công lý. Ở mức độ nào đó, xét xử lưu động còn thể hiện tính công khai, minh bạch, dân chủ của hoạt động tư pháp trong một Nhà nước văn minh. Các phiên tòa lưu động càng được đánh giá cao hơn khi đặt nó trong bối cảnh các Tòa án địa phương còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí, nhân lực, địa hình, địa lý… để đưa công lý tiếp cận gần dân hơn.
3.2. Những hạn chế, hệ lụy của việc xét xử lưu động vụ án hình sự
3.2.1. Đối với cá nhân (bị cáo)
- Ngoài hình phạt mà Tòa án áp dụng với bị cáo, bị cáo còn phải chịu nhiều sức ép từ phía cộng đồng, gây ảnh hưởng tới việc tái hòa nhập cộng đồng khi trở về với đời sống xã hội. Khi một bị cáo bị đưa ra xét xử bằng một phiên tòa lưu động thì bên cạnh các quy định của pháp luật, bị cáo bị xét xử lưu động dường như còn phải chịu sự buộc tội, một sức ép nặng nề khác từ phía đám đông với vô số các quy phạm xã hội như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo… mà nếu xét xử tại phòng xử án họ không phải gánh chịu. Hiện nay, tâm lý của cộng đồng vẫn còn biểu hiện của “chủ nghĩa lý lịch”, vẫn còn những thành kiến, định kiến theo lối nghĩ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” khiến cho không ít những người bị kết án bị cộng đồng xa lánh, tẩy chay, khó có cơ hội trở thành một người bình thường sau khi trở về với đời sống xã hội.
Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Người bị xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận”. Tuy nhiên, khi họ đã được “giáo dục, cải tạo” và đã được Nhà nước chứng nhận là đã cải tạo xong, đã trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội, được trở về với đời sống xã hội, được phục hồi đầy đủ quyền công dân như một người bình thường, thì họ là một người bình thường, không ai được lợi dụng quá khứ về hành vi của họ để đối xử không công bằng với họ để đảm bảo quyền công dân, quyền con người… Luật là thế nhưng thực tiễn xã hội không thế, những thành kiến, định kiến của xã hội, những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, những biểu hiện của chủ nghĩa lý lịch đã gây ra rất nhiều rào cản đối với người đã chấp hành án xong, tái hòa nhập cộng đồng. Trong nhiều trường hợp họ bị xa lánh, bị kỳ thị, thậm chí bị tẩy chay… khiến họ bị xô đẩy, lôi kéo tham gia, quan hệ với nhóm người xấu, bị lôi kéo thực hiện những hành vi xấu… để rồi lại tiếp tục vi phạm pháp luật.
Trong quá trình hành nghề luật sư, tiếp xúc với các bị cáo có nguy cơ bị tổ chức xét xử lưu động vụ án hình sự thì nhìn chung các bị cáo đều không muốn, thậm chí rất sợ hãi bởi “bản án” vô hình của cộng đồng hơn là lo sợ với bản án của Tòa án. Nhiều bị cáo cho rằng đưa họ về xét xử tại quê hương bản quán, trước anh em họ hàng, bà con lối xóm… là một “hình phạt”, đôi khi còn khủng khiếp hơn cả hình phạt tù, không biết khi nào mới được “xóa án tích”, được mọi người, tha thứ chấp nhận bị cáo sau khi đã chấp hành xong bản án của Tòa án. Ngay cả những người thân của họ cũng phải chịu sức ép ghê gớm từ dư luận, nhiều khi làm đảo lộn mọi mối quan hệ mà họ đang có, mà nếu chỉ xét xử tại công đường thì nỗi đau này có lẽ được giảm đi ít nhiều. Chính vì vậy, xét xử lưu động nhiều khi không phải công việc của hội đồng xét xử nữa, mà tựa như một kiểu xét xử tập thể mà nhiều nước Hồi giáo đang áp dụng.
- Mức hình phạt trong các vụ án xét xử lưu động thường nghiêm khắc hơn các vụ án xét xử tại trụ sở Tòa án. Trong quá trình xét xử lưu động, vì lý do tuyên truyền, phòng ngừa, giáo dục răn đe… và cũng một phần từ sức ép của đông đảo người dân mà các hình phạt cho các bị cáo khi xét xử lưu động dường như được hội đồng xét xử tuyên “nặng tay” hơn so với những vụ án xét xử tại trụ sở Tòa án. Kết quả giải quyết vụ án như vậy làm hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo.
Mục đích của hình phạt bao gồm hai thuộc tính, đó là trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội. Mức độ trừng trị được thể hiện ở loại và mức hình phạt được áp dụng. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp hình phạt cao, sự lên án gay gắt thì tác dụng cải tạo, giáo dục cao, mà hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, có sự thông cảm, tha thứ từ cộng đồng mới phát huy được tác dụng giáo dục. Trong xã hội tiến bộ ngày nay, việc xử lý hình sự, áp dụng hình phạt chủ yếu nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội và tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng. Thực tế, việc bị cáo phạm tội xảy ra ở một trong hai trường hợp: Phạm tội do bồng bột, nóng nảy hoặc phạm tội có tính toán, phạm tội nhiều lần, có tính chuyên nghiệp, tái phạm (người phạm tội có ý thức và bản tính coi thường pháp luật). Đối với những trường hợp phạm tội do lầm lỡ mà bị xét xử lưu động sẽ gây thêm sự ác cảm từ cộng đồng và sự mặc cảm từ bản thân bị cáo, đó là rào cản trong việc tái hòa nhập cộng đồng. Ngược lại, đối với những trường hợp phạm tội do bản tính côn đồ, coi thường pháp luật thì việc xét xử lưu động sẽ làm tăng thêm tính lỳ lợm, ngông cuồng, với tâm lý không còn gì để mất, người phạm tội rất có thể sẽ càng trở nên nguy hiểm hơn. Thực tế đã có không ít trường hợp nảy sinh tác động ngược chiều, tiêu cực khi xét xử lưu động. Cách đây vài năm, Tòa án nhân dân tỉnh Q mở phiên tòa lưu động xét xử bị cáo Nguyễn Văn Ch về tội giết người. Từ sáng sớm gia đình người bị hại đã huy động anh em, họ hàng, người kèn, trống để đón hội đồng xét xử và bị cáo. Khi kiểm sát viên luận tội đề nghị áp dụng hình phạt tử hình đối với bị cáo, phía gia đình người bị hại đã đồng loạt vỗ tay hưởng ứng, trái lại là tiếng khóc thảm thiết của gia đình bị cáo. Khi luật sư trình bày lời bào chữa đề nghị áp dụng hình phạt tù thì gia đình bị hại kịch liệt phản đối và đe dọa vị luật sư. Thấy vậy, luật sư nhanh chóng kết thúc bào chữa và không tranh luận gì thêm trong khi hồ sơ vụ án có nhiều mâu thuẫn trong việc xác định độ tuổi của bị cáo (bị cáo chưa thành niên không bị áp dụng hình phạt tử hình). Hay như vụ án hủy hoại tài sản do Tòa án nhân dân huyện Q.T xét xử lưu động tại xã Q.K. Trước bà con lối xóm, hai anh em bị cáo không những không hối cải mà còn ngang nhiên đe dọa sẽ trả thù gia đình bị hại. Ở hai vụ án này, chính việc xét xử lưu động đã làm khuấy thêm nỗi đau, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa gia đình, họ hàng bị cáo và người bị hại; làm mất niềm tin của người dân về tính tôn nghiêm của công đường, hiệu quả PBGDPL không được phát huy.
- Với mục đích, tính chất của việc xét xử lưu động vụ án hình sự thì khó có cơ hội để Tòa án tuyên bố bị cáo không phạm tội. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Bản án của Tòa án có thể tuyên bố bị cáo không phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm - nghĩa là bị cáo bị oan nếu kết quả tranh tụng tại phiên tòa phản ánh việc truy tố là không có căn cứ. Nếu xét xử ở trụ sở Tòa án thì việc Tòa án tuyên bố bị cáo không phạm tội sẽ không có nhiều trở ngại… Nhưng đối với những vụ án xét xử lưu động, với mục đích tuyên truyền pháp luật, làm cho người dân hiểu rằng hành vi của bị cáo gây hại cho xã hội như thế nào, sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc ra sao..., Tòa án mặc nhiên thừa nhận bị cáo có tội (suy đoán có tội), thì việc tuyên bố bị cáo không có tội sẽ làm “phản tác dụng” mục đích xét xử lưu động. Chính vì thế nếu những vụ án xét xử lưu động mà có diễn biến mới, thẩm phán không lường trước được khi nghiên cứu hồ sơ cần phải trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc có thể tuyên bố bị cáo không phạm tội thì hội đồng xét xử lại phải cố kết thúc vụ án bằng một bản án nghiêm khắc để đạt được mục đích đề ra. Tình huống này làm phát sinh nguy cơ gây oan sai, ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của bị cáo.
3.2.2. Đối với tổ chức
Pháp luật hình sự hiện hành không quy định TTHS đối với pháp nhân. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định TTHS đối với pháp nhân thương mại. Theo đó, tổ chức có hành vi phạm tội thì sẽ bị xem xét, xử lý hình sự. Vấn đề đặt ra ở đây là, khi xem xét TTHS đối với pháp nhân thương mại, đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều trường hợp Tòa án đưa ra xét xử lưu động đối với các pháp nhân này. Tuy nhiên, việc xét xử lưu động đối với tổ chức cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm bởi: Khi một tổ chức có hành vi phạm tội và bị đưa ra xét xử lưu động thì việc tổ chức đó có nguy cơ đứng trước bờ vực của phá sản là rất lớn. Như đã phân tích ở trên, xét xử lưu động là đưa vụ án ra xét xử công khai tại nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi có tranh chấp xảy ra, nơi bị cáo, đương sự cư trú nên việc một tổ chức (có thể là công ty, doanh nghiệp, tập đoàn…) đang thực hiện hoạt động kinh doanh nhưng có hành vi phạm tội và bị đưa ra xét xử lưu động thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người tiêu dùng, đặc biệt là tâm lý của những đối tác làm ăn đối với phía tổ chức đó. Sau khi chấp hành xong bản án của Tòa án, những tổ chức này rất khó có thể tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, liệu còn cá nhân, tổ chức nào có đủ tự tin, dũng cảm để ký kết hợp đồng, thực hiện các giao dịch với những đối tác đã từng có hành vi phạm tội.
Vì vậy, cần phải có sự cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng về việc có nên xét xử lưu động với những vụ án mà người phạm tội là pháp nhân thương mại hay không để hình phạt tương xứng với lỗi vi phạm, tạo cơ hội cho pháp nhân có cơ hội tiếp tục đóng góp giá trị cho xã hội, tránh gây hệ lụy tới người lao động, ảnh hưởng tới cộng đồng, xã hội.
4. Một số kiến nghị đối với hoạt động xét xử lưu động vụ án hình sự
Hiện nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về việc xét xử lưu động vụ án hình sự. Có một số ý kiến thì cho rằng xét xử lưu động là cần thiết, góp phần tích cực trong hoạt động tuyên truyền, PBGDPL, giá trị tích cực nhiều hơn những hạn chế… Xuất phát từ những cơ cở lý luận và thực tiễn, tác giả cho rằng không nên tiếp tục xét xử lưu động vụ án hình sự bởi những hệ lụy mà nó mang lại nhiều hơn là ý nghĩa về mặt tuyên truyền, PBGDPL. Chúng ta nên phát huy những phương pháp khác để tuyên truyền, PBGDPL chứ không nên sử dụng hoạt động xét xử để thực hiện mục đích tuyên truyền ngay tại phiên tòa, làm như vậy dễ vi phạm những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc công bằng, bình đẳng…
Khi đặt ra vấn đề nên hay không nên xét xử lưu động và giải quyết nó, cần đặt nó trong mối quan hệ với các nguyên tắc của hoạt động tư pháp, trong mục đích của Nhà nước pháp quyền là bình đẳng, tôn trọng, bảo vệ quyền con người ngay cả khi họ bị buộc tội. Nói như trên không có nghĩa là Tòa án thôi không tuyên truyền pháp luật nữa. Vấn đề là cần có phương thức tuyên truyền thế nào đó để đạt hiệu quả cao hơn. Theo tác giả, hình thức công khai các bản án của Tòa án là cách tuyên truyền có hiệu quả nhất, văn minh nhất cần được phổ biến nhân rộng. Cùng với việc xét xử công khai tại công đường và công khai, minh bạch các bản án, quyết định của Tòa án chẳng những tuyên truyền được pháp luật mà còn bảo vệ được quyền con người. Tòa án xét xử công khai, nhưng không nên xét xử lưu động, càng không nên lấy đó làm thành tích như hiện nay.
Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng phát triển mạnh nên cần hướng đến việc khai thác lợi thế của các phương tiện này để tuyên truyền, PBGDPL; chỉ xét xử lưu động trong những trường hợp thực sự thấy cần thiết. Ngoài ra, các chương trình tuyên truyền, PBGDPL phát trên sóng truyền thanh, truyền hình cũng đã và đang mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Để đi đến kết luận là có nên tiếp tục xét xử lưu động vụ án hình sự nữa hay không, theo tác giả cần phải lưu ý một số vấn đề sau:
Một là, cần có tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng mức về hiệu quả cũng như hệ lụy của hoạt động xét xử lưu động vụ án hình sự đối với bị cáo và cộng đồng xã hội, đồng thời cần nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm của các nước phát triển về hoạt động xét xử công khai.
Hai là, nếu việc xét xử lưu động vụ án hình sự tiếp tục diễn ra thì cần phải có cơ sở pháp lý trên cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn.
Ba là, nếu quy định là một hoạt động xét xử thường xuyên của Tòa án thì phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của TTHS, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo tác giả, để duy trì hoạt động xét xử lưu động vụ án hình sự thì cần phải có quy định và bảo đảm các tiêu chí xét xử lưu động vụ án hình sự như sau:
- Cần thiết lập cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Chỉ xét xử lưu động với vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm;
- Chỉ xét xử lưu động với vụ án hình sự mà nhận thức pháp luật của cộng đồng và nhận thức pháp luật của bị cáo, người bị hại trong vụ án còn hạn chế, với mục đích tuyên truyền, PBGDPL;
- Chỉ xét xử lưu động với vụ án hình sự mà loại tội đó có xu hướng phổ biến, gia tăng do thiếu hiểu biết pháp luật của người dân;
- Không xét xử lưu động với những vụ án xâm hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân;
- Không xét xử lưu động vụ án hình sự với những địa phương còn mang nặng những thành kiến, định kiến về người phạm tội để đảm bảo quyền lợi của bị cáo khi tái hòa nhập cộng đồng;
- Phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong TTHS khi thực hiện hoạt động xét xử lưu động, trong đó có nguyên tắc công bằng, bình đẳng, nguyên tắc suy đoán vô tội…;
- Phải đảm bảo tiết kiệm nhưng vẫn thế hiện sự uy nghiêm người tiến hành tố tụng, của cơ quan tiến hành tố tụng, sự nghiêm minh của pháp luật trong phiên tòa xét xử lưu động;
- Trong trường hợp kết quả điều tra xã hội học, đánh giá thực tiễn và nghiên cứu hệ thống pháp luật của các nước tiên tiến cho thấy hoạt động xét xử lưu động mang lại ít giá trị hơn là những hệ lụy cho xã hội thì cần chấm dứt hoạt động xét xử này đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
Văn phòng Luật sư Chính Pháp