1. Thực trạng tham nhũng vặt
Đối với tham nhũng vặt, mặc dù xuất hiện nhiều trên thực tế nhưng chưa có một con số thống kê cụ thể về tổng trị giá tài sản qua những vụ, việc tham nhũng vặt. Tham nhũng vặt mới dừng lại ở những cảm nhận, phản ánh của người dân qua các phương tiện truyền thông, qua các buổi tiếp xúc cử tri, qua những hình ảnh vi phạm của cán bộ, công chức được người dân ghi lại. Tổng giá trị tài sản của hành vi tham nhũng này khó để đo đếm chính xác nhưng ước lượng là rất lớn, gây những hệ lụy xấu cho nền hành chính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin và nền đạo đức công vụ.
Trong các lĩnh vực, ngành nghề dễ nảy sinh tham nhũng vặt có thể kể tới lĩnh vực tài nguyên, môi trường, giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai, chuyển nhượng, chuyển đổi quyền sử dụng đất của người dân. Theo kết quả khảo sát của một tổ chức nước ngoài, 85% người dân và 30% doanh nghiệp kêu phải mất phí ngoài luồng khi làm các thủ tục liên quan đến đất đai. Còn trong thực tế 65% vụ việc tranh chấp, phản ánh, tố cáo các sai phạm là liên quan đến đất đai. Kết quả khảo sát tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc - các tỉnh, thành phố có nhiều khiếu kiện về đất đai cho thấy, 84% số hộ chuyển nhượng giấy chứng nhận nói hồ sơ của họ có sự trục trặc, 46% số hộ xin cấp giấy chứng nhận đi nhờ dịch vụ trung gian vì sợ phức tạp. 72,1% người dân ở Hà Nội, 74% người dân ở TP. Hồ Chí Minh, 68,3% người dân ở Vĩnh Phúc cho rằng có người thân thụ lý hồ sơ sẽ nhanh hơn nhiều[1]. Còn theo kết quả điều tra, khảo sát Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) cho thấy tình trạng gây nhũng nhiễu trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xu hướng gia tăng ở các địa phương. Theo đó, có khoảng 44% số người làm thủ tục cấp sổ đỏ phải “bôi trơn” mới làm xong thủ tục[2]. Số tiền người dân bỏ ra chi phí cho việc “bôi trơn” không ngừng tăng lên, phản ánh những nhũng nhiễu của nhiều cơ quan, cán bộ khi giải quyết công việc, sự vụ. Theo Báo cáo PAPI, trong 07 năm qua, người Việt đang ngày càng dễ dàng chi một khoản tiền lớn để “bôi trơn” khi sử dụng các dịch vụ thiết yếu. Ở giai đoạn 2011 - 2012, số tiền trung bình khiến người dân có thể trình báo chuyện hối lộ với cơ quan chức năng là khoảng 05 triệu đồng. Chỉ sau vài năm, con số này tăng gấp 05 lần: 27,5 triệu đồng[3].
Bên cạnh lĩnh vực đất đai thì tình trạng tham nhũng vặt cũng xảy ra đối với Ngành Y tế. Trong bối cảnh nhiều cơ sở y tế quá tải, bệnh tình người dân có những diễn biến phức tạp thì tình trạng người nhà bệnh nhân “lo lót” cho bác sĩ, y tá để được thuận tiện trong khám, chữa và điều trị bệnh trở nên phổ biến. Mặc dù trong những năm qua Ngành Y tế đưa ra nhiều biện pháp để phòng ngừa, ngăn cấm tình trạng đưa phong bì, nhận hối lộ trong môi trường y tế nhưng hiện tượng này không thuyên giảm mà có xu hướng phổ biến, công khai. Theo kết quả PAPI năm 2017, khoảng 36% người được hỏi khẳng định phải chi thêm tiền để được quan tâm khi đi khám, chữa bệnh. Tỷ lệ người dân bị vòi vĩnh sẵn sàng tố giác hành vi này rất thấp, chỉ khoảng 3%. Họ sợ bị trù úm, cô lập và lo ngại không đem lại kết quả gì[4].
Đối với lực lượng cảnh sát giao thông, trật tự, một ngành đối diện với nhiều nguy hiểm, khó khăn, thử thách nhưng cũng đầy cám dỗ. Nhiều cảnh sát giao thông trong quá trình thực thi nhiệm vụ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để “làm luật”, nhận mãi lộ của người tham gia giao thông, vận chuyển hàng hóa trên nhiều cung đường khi có hành vi vi phạm. Nhiều vụ việc đã được người dân ghi lại, phản ánh đến các cơ quan chức năng để xử lý. Hiện tượng mãi lộ, nhận tiền phạt trực tiếp, không ghi biên bản của một số cảnh sát giao thông gây bức xúc dư luận. Theo báo cáo khảo sát xã hội học “tham nhũng dưới góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức” do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam công bố, đã đưa ra kết quả “cảnh sát giao thông là ngành có nạn tham nhũng phổ biến nhất”[5].
Còn đối với Ngành Hải quan, một ngành liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, thương mại, thường xuyên làm việc, giải quyết sự vụ của các doanh nghiệp, công ty, nhà đầu tư trong việc xuất nhập khẩu các mặt hàng cũng từng để xảy ra những vụ việc tham nhũng vặt được các cơ quan thông tấn, báo chí phản ảnh thời gian qua. Theo thông tin của Ngành Hải quan, năm 2017, số công chức viên chức bị xử lý kỷ luật trong Ngành Hải quan là 69 người; trong 05 tháng đầu năm 2018, Ngành Hải quan có 33 trường hợp bị kỷ luật[6]. Còn theo thông tin từ Hội thảo công bố kết quả khảo sát mức độ hài lòng của doanh nghiệp về việc thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2018 do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tại Hà Nội, cho biết qua cuộc khảo sát 3.061 doanh nghiệp, trong đó 46% từ khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, 33% thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và 17% từ các doanh nghiệp nhà nước, kết quả cho thấy các doanh nghiệp đánh giá chi phí, trong đó có chi phí ngoài quy định (thường được gọi là phí bôi trơn) luôn là gánh nặng của doanh nghiệp Việt Nam. Qua kết quả khảo sát của VCCI cho thấy, 52% doanh nghiệp cho biết không bị phân biệt đối xử nếu không chi trả chi phí ngoài quy định; 34% doanh nghiệp không biết có bị phân biệt đối xử hay không; chỉ có 15% doanh nghiệp cho rằng sẽ bị phân biệt đối xử nếu không trả chi phí ngoài quy định (năm 2015 là 31%). Trong số các doanh nghiệp nhận thấy bị phân biệt đối xử, hình thức phổ biến nhất là kéo dài thời gian làm thủ tục (93%). 69% phản hồi cho rằng doanh nghiệp có thể bị gây khó khăn trong lần làm thủ tục sau. Các hình thức phân biệt khác bao gồm yêu cầu giấy tờ, chứng từ không theo quy định (48%) và thái độ không văn minh lịch sự (41%). Về mức độ thực hiện kỷ cương của cán bộ, công chức hải quan, phần lớn ý kiến đánh giá mức độ thực hiện kỷ cương và tác phong làm việc của công chức ở mức bình thường, dao động từ 51% đến 56% ở cả năm tiêu chí[7].
Sở dĩ tham nhũng vặt có đất sống và trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã hội hiện nay bởi có nhiều nguyên nhân, từ “kẽ hở” của luật pháp; từ cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ, chặt chẽ; cơ chế kiểm soát quyền lực và sự giám sát của các cơ quan chức năng chưa đủ mạnh; đạo đức công vụ của cán bộ, công chức không được thực thi đầy đủ; tâm lý và nhu cầu muốn giải quyết công việc của người dân (muốn được nhanh, được ưu tiên, quan tâm)… khiến cho “chân dết” của tham nhũng vặt lan nhanh đến nhiều cơ quan, đơn vị, để lại những hậu quả nghiêm trọng, cần những cơ chế và biện pháp đủ mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo ra môi trường công sở kỷ cương, liêm chính, tận tụy, góp phần tạo ra mô hình Nhà nước kiến tạo ở nước ta hiện nay.
2. Một số giải pháp phòng, chống tham nhũng vặt
Để công tác phòng, chống tham nhũng nói chung cũng như tham nhũng vặt nói riêng cần sự vào cuộc một cách quyết liệt, đồng bộ của các cấp, các ngành từ xây dựng cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý, thi hành pháp luật đến những biện pháp xử lý nghiêm minh, mang tính răn đe. Nhưng trước hết cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản như:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc tinh thần chỉ đạo của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng được thể hiện qua các nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết số 14/NQ-TW ngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị khóa VII về lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng; Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 21/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 tại Hội nghị lần thứ 05 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 03 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí... trong đó, cần thống nhất quan điểm: Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm.
Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức tuân thủ Hiến pháp và pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và toàn thể nhân dân, trong đó đặc biệt quan tâm đến những đạo luật như: Bộ luật Hình sự; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Tố cáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Đấu giá tài sản; Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Quản lý nợ công; Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước... nhằm cảnh báo, phòng ngừa, răn đe những hành vi có ý định tham nhũng vặt và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung những điều, khoản quy định trong luật, nghị định, thông tư về việc nhận diện, xử lý tham nhũng vặt, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động để có biện pháp phòng ngừa, xử lý.
Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát quyền lực của cán bộ, công chức có quyền khi thực thi công vụ, bởi quyền lực sẽ sinh ra tham nhũng. Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ với những tiêu chuẩn quy định rõ ràng nhằm phát huy năng lực, sở trường của cán bộ cũng như khắc phục những hiện tượng nhũng nhiễu nảy sinh.
Thứ ba, đổi mới công tác đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng đến việc nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 04 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 04 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các đề án, chiến lược của Chính phủ về xây dựng văn hóa công sở, văn hóa công vụ, nâng cao tinh thần, thái độ, trách nhiệm tận tụy, liêm chính, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, đất nước của người cán bộ trong thời kỳ mới.
Thứ tư, quan tâm, chăm lo và nâng cao đời sống của cán bộ công chức, viên chức với những cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp với vị trí, năng lực việc làm. Đổi mới chính sách về tiền lương, tạo môi trường làm việc khoa học để cán bộ yên tâm công tác, đảm bảo cuộc sống sinh hoạt và nhu cầu hàng ngày để cán bộ không dám, không thể tham nhũng. Không ngừng bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thi hành công vụ.
Thứ năm, cải cách mạnh mẽ nền hành chính công vụ, thực hiện tốt mô hình Chính phủ điện tử, Chính phủ hành động với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin, tiến tới số hóa trong lĩnh vực hành chính, dịch vụ công, cắt giảm những thủ tục phiền hà, những văn bản chồng chéo, loại bỏ những quy định đã trở nên bất cập, lạc hậu; bổ sung những quy định mới với tầm nhìn dài hạn, dự tính được những tình huống có thể nảy sinh, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để nền hành chính vận hành một cách khách quan, công bằng, chính xác, minh bạch. Sự hình thành Chính phủ điện tử, thành phố, đô thị thông minh, minh bạch hóa thông tin, hồ sơ, thủ tục giấy tờ, sẽ hạn chế đến mức tối đa những hành vi tham nhũng vặt. Cùng với việc minh bạch hóa quá trình tiếp nhận và xử lý dịch vụ công thì việc thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức cũng cần được giám sát, quản lý chặt chẽ. Hạn chế việc sử dụng tiền mặt, hướng đến việc chi trả, thanh toán, giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng nhằm kiểm soát tốt nguồn thu của cán bộ, công chức.
Thứ sáu, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hướng về nhân dân để phục vụ vì quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những phản hồi, góp ý của người dân để điều chỉnh nhằm đáp ứng tốt yêu cầu, đòi hỏi mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Bên cạnh đó, người dân phải không ngừng nâng cao hiểu biết về kiến thức pháp luật, về quyền và trách nhiệm của cá nhân; thực hiện nếp sống văn minh và ứng xử có văn hóa khi đến giao dịch nơi công sở; tránh tâm lý đám đông, tránh bị xúi giục, kích động. Cùng hỗ trợ, hợp tác tích cực với cơ quan công quyền để giải quyết tốt công việc của cá nhân, gia đình và xã hội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh