1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ được coi là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước[1]. Tuy nhiên, cách hiểu về nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay ở Việt Nam cũng còn rất khác nhau. Có quan điểm cho rằng, “tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả”[2]; “nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể”[3]… Có quan điểm khẳng định: Nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Có ý kiến phân tích, “tập trung dân chủ” thì “tập trung” là danh từ và “dân chủ” là tính từ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm khắc phục hiện tượng tập trung quan liêu trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo tôi, quan điểm và phân tích này phản ánh đầy đủ bản chất, mục tiêu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa, V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nghĩa chung nhất là: Tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự[4].
Hiện nay, trong hầu hết các nghiên cứu về bộ máy nhà nước Việt Nam đều đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này thể hiện ở mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới, giữa thủ trưởng và nhân viên. Nguyên tắc tập trung dân chủ một mặt đề cao chế độ dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhưng mặt khác, cũng đề cao chế độ kỷ luật trong các mối quan hệ giũa các cơ quan nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được ghi nhận trong các Hiến pháp Việt Nam, nhưng nội dung không nhất quán. Hiến pháp năm 1959 là Hiến pháp đầu tiên ghi nhận tại Điều 4 về “Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ”. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều thống nhất quy định “Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Theo đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được nhấn mạnh là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhưng trong luật tổ chức các cơ quan nhà nước, chỉ có một số luật ghi nhận nguyên tắc này, chẳng hạn, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002 quy định “Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”[5].
Theo Hiến pháp năm 2013, “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”[6]. Đây là quy định thể hiện rõ nhất, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam. Các luật tổ chức các cơ quan nhà nước được ban hành hay sửa đổi, bổ sung sau Hiến pháp năm 2013 đều quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nhưng vẫn chỉ có một số luật ghi nhận nguyên tắc tập trung dân chủ (như Luật Tổ chức Chính phủ năm 2014 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ghi nhận, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương).
Tuy nhiên, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thời gian qua cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã có nhiều thay đổi về nội dung và hình thức thực hiện, đồng thời, cũng đang đặt ra những yêu cầu, thách thức mới.
2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Trước đổi mới, trong cơ chế tập quyền xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Trung ương với địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan nhà nước cấp dưới là quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện. Quyền lực nhà nước được tập trung về Trung ương, trong đó, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo 04 hệ thống cơ quan là hệ thống cơ quan đại diện, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan viện kiểm sát nhân dân và hệ thống cơ quan tòa án nhân dân. Mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu bị chi phối bởi mối quan hệ theo chiều dọc. Các quan hệ chiều ngang khá yếu ớt. Chẳng hạn, tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện là do chủ tịch và UBND cấp tỉnh quyết định là chủ yếu. Các cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện là cơ quan song trùng trực thuộc, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình chủ yếu theo sự phân giao của cơ quan chuyên môn cấp trên trực tiếp.
Trong điều kiện đó, bộ máy nhà nước được tổ chức theo hệ thống thứ bậc chặt chẽ, các nguồn lực được thống nhất quản lý từ Trung ương, các mục tiêu quốc gia dễ dàng thực hiện đồng bộ trên phạm vi cả nước. Kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước được duy trì thuận lợi. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước quá cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, chế độ thông tin, báo cáo khó bảo đảm tính xác thực, các phản ánh từ cuộc sống, qua nhiều tầng nấc trung gian có thể bị biến dạng, méo mó theo ý chí chủ quan của mỗi cấp báo cáo. Việc đề cao đến mức tuyệt đối hóa các quyết định tập thể đã gây ra nhiều chậm trễ trong quản lý nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ không phát huy được hiệu quả như mong muốn.
Thực hiện chủ trương đổi mới trong Văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng, với mục tiêu tinh giản và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, nhiều định hướng đổi mới quan trọng đã được xây dựng và triển khai trongcác nhiệm kỳ đại hội Đảng cho đến nay và trong các nghị quyết trung ương giữa nhiệm kỳ, qua đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đó là:
Thứ nhất, tinh giản bộ máy nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, từ trên 70 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, đến nay chỉ còn 22 bộ và cơ quan ngang bộ. Theo đó, các cơ quan chuyên môn ở địa phương cũng được giảm đi đáng kể. Quá trình tinh giản bộ máy vẫn đang được triển khai mạnh mẽ theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bao gồm cả việc sát nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ, sát nhập các cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói riêng và của cả hệ thống chính trị.
Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã mang lại nhiều thay đổi đáng kể về chất lượng hoạt động của Quốc hội, nhất là chất lượng làm việc tại các kỳ họp. Nhờ đó, chất lượng làm luật của Quốc hội đã được nâng lên đáng kể, các hoạt động giám sát tối cao, trong đó, có hoạt động chất vấn tại hội trường có nhiều đổi mới đã thu hút được cử tri cả nước quan tâm. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội đã thể hiện được vai trò của mình khi quyết định nhiều vấn đề kinh tế - xã hội.
Thứ ba, thực hiện phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước, từ chỗ, các cơ quan nhà nước ở các cấp khác nhau có cùng nhiệm vụ quyền hạn, đến nay, bộ máy nhà nước đang được tổ chức bảo đảm mục tiêu “mỗi nhiệm vụ chỉ được giao cho một cơ quan, một cá nhân phụ trách”[7]. Đồng thời, mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước được dịch chuyển mạnh sang các mối quan hệ chiều ngang. Ở địa phương, các chính quyền địa phương đã hình thành với mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND cùng cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn, các nguồn lực của UBND hiện nay được quyết định chủ yếu bởi HĐND cùng cấp, thay vì của UBND cấp trên như trước kia. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp đã không còn là cơ quan song trùng trực thuộc như trước kia, mà là cơ quan giúp việc cho UBND cùng cấp. Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 cũng đã hoàn thiện cơ chế phân công, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương theo hướng rành mạch, rõ ràng hơn.
Đồng thời, mỗi cơ quan nhà nước, từng bộ phận, cá nhân cũng được phân công, phân cấp nhiệm vụ quyền hạn để nâng cao tính tự chủ, phát huy khả năng sáng tạo đến từng cá nhân trong bộ máy. Sau gần 15 năm thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, các địa phương đã và đang tìm cách để khẳng định thương hiệu của mình về nhiều mặt, trong đó có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (CPI); chỉ số về cải cách hành chính công (PAPI)… Điều này cho thấy, các địa phương đã có được sự chủ động nhất định trong phát huy năng lực tổ chức của chính quyền, các tiềm năng sẵn có của địa phương.
Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm cá nhân trong quản lý nhà nước. Cùng chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, ủy quyền, pháp luật đang hoàn thiện theo hướng phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể với nhiệm vụ quyền hạn của cá nhân, nhất là với cơ quan hoạt động theo cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2014 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng hướng đến phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn giữa Thủ tướng Chính phủ và tập thể Chính phủ; giữa chủ tịch UBND và tập thể UBND.
Như vậy, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thời gian qua đã thực sự phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chế độ kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được tăng cường với việc quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng cấp chính quyền, phân định trách nhiệm cá nhân với trách nhiệm tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân nhằm phát huy năng lực, sức sáng tạo của cá nhân, nhất là cá nhân đúng đầu. Tính dân chủ trong bộ máy được phát huy cao độ với nhiều cơ chế, các chính quyền địa phương được quyết định nhiều vấn đề nhằm phát huy những thế mạnh về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa để nâng cao đời sống vất chất, tinh thần cho nhân dân địa phương. Chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương được phản ánh khá khách quan và toàn diện qua các chỉ số PAPI, chỉ số SIPAS, chỉ số PAR INDEX, chỉ số PCI. Công tác nhân sự chủ yếu được đề xuất từ cơ quan, đơn vị, chính quyền địa phương, nhưng vẫn đảm bảo sự tập trung thống nhất qua cơ chế phê chuẩn nhân sự của cấp trên trực tiếp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn những bất cập, hạn chế sau:
- Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lý[8]. Hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước.
- Bộ máy chính quyền địa phương hiện nay, vẫn còn rập khuôn, chưa được tổ chức phù hợp với mô hình đô thị, nông thôn, hải đảo. Cơ cấu các cơ quan chuyên môn, về cơ bản vẫn do Chính phủ quy định. Biên chế công chức địa phương được phê duyệt hàng năm, vẫn còn mang tính “xin - cho”. “Việc phân bổ kinh phí thường xuyên theo biên chế chưa gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan, đơn vị…”[9] là nguyên nhân làm hạn chế tính chủ động của các cơ quan, tổ chức, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Sự phân công, phân cấp chưa đầy đủ trong nhiều trường hợp dẫn đến tình trạng nguồn lực quốc gia bị phân tán, khó kiểm soát, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Hơn nữa, việc phân cấp mới chủ yếu thực hiện giữa các cơ quan trung ương với chính quyền cấp tỉnh và làm từ trên xuống nên cấp dưới thường bị động. Giữa các cấp chính quyền địa phương, việc phân cấp còn hạn chế, dẫn đến tình trạng, nhiều việc phát sinh giải quyết chậm trễ, qua nhiều cấp, nhiều thủ tục do cấp dưới không được phân cấp nguồn lực.
- Việc xác định rõ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm cá nhân sẽ góp phần phát huy năng lực của từng thiết chế, cá nhân, nâng cao chế độ kỷ luật, kỷ cuong trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiện trong thực tế gặp nhiều khó khăn do việc chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước còn chồng chéo, khó phân định trách nhiệm. Việc phân định trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu còn gặp nhiều khó khăn, xuất phát nhiều lý do, có thể là từ bất cập của thể chế, nhưng cũng có khi là do chưa có sự phân định rõ ràng vai trò lãnh đạo của Đảng với hoạt động quản lý nhà nước.
- Trong khi nguyên tắc tập trung dân chủ đề cao các quyết định tập thể thì nhiều quyết định tập thể có chất lượng không cao, do việc không phát huy hết năng lực của mỗi cá nhân. Vì là quyết định của tập thể, trách nhiệm tập thể nên có những cá nhân thể hiện ý kiến theo kiểu “tát nước theo mưa”, cho ý kiến theo số đông hoặc theo chủ ý của lãnh đạo. Có lãnh đạo tìm cách xây dựng ê kíp bằng cách bố trí những người “cùng phe cánh” để dễ dàng thông qua các quyết định theo ý chí cá nhân, lợi dụng tập thể để hợp pháp hoá các quyết định cá nhân. Khi có thành tích thì nhận đó là do “sự lãnh đạo tài tình” của bản thân, nhưng nếu gây hậu quả xấu thì đổ lỗi cho tập thể.
3. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
3.1. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Thực hiện chủ trương “rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương để góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực”[10], các quy định về phân cấp, phân quyền cần được hoàn thiện hơn nữa. Vừa qua, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 đã sửa đổi, bổ sung rất nhiều quy định liên quan đến việc phân cấp, phân quyền rành mạch hơn giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương với chính quyền địa phương. Đồng thời, sửa đổi khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thành “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính… phù hợp với đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt”.
Tuy nhiên, việc phân cấp, phân quyền cần được nghiên cứu và thực hiện với giải pháp đột phá, để các địa phương được chủ động phát huy năng lực và những điều kiện đặc thù của mình một cách bình đẳng. Hạn chế và đi đến chấm dứt hiện tượng xin hưởng cơ chế đặc thù không dựa trên các tiêu chuẩn, tiêu chí pháp luật quy định. Việc thí điểm cơ chế đặc thù cho một số địa phương, đơn vị là cần thiết trong bối cảnh hiện nay, nhưng không phù hợp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các địa phương phải được bình đẳng trong thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các địa phương, cơ quan, đơn vị cần được phân cấp mạnh hơn nữa về tổ chức bộ máy và nhân sự, đồng thời, “nghiên cứu sửa đổi quy định và thực hiện việc phân bổ ngân sách chi thường xuyên đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị”[11]. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm của lãnh đạo chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị đối với kết quả hoạt động của địa phương, đơn vị mình.
Ngoài ra, việc thí điểm các cơ chế đặc thù liên quan đến phân cấp, phân quyền hiện nay cần được ban hành cùng kế hoạch tổng kết theo lộ trình để rút kinh nghiệm, hoàn thiện thể chế và đưa vào áp dụng.
3.2. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân với tập thể, phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân
Việc phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân với tập thể đã rất được quan tâm hoàn thiện trong các quy định pháp luật và quy chế hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Đây được coi là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu qủa hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tiếp tục chỉ rõ “các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm”[12]. Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, thí điểm mô hình có tính chất đột phá, nhằm đề cao vai trò trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu, chẳng hạn, mô hình trưởng đặc khu hành chính - kinh tế đặc biệt đã được nghiên cứu đề xuất khi xây dựng dự thảo Luật Đặc khu.
Đồng thời, phát huy vai trò trách nhiệm cá nhân, nhất là, đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp; cá nhân là thành viên Chính phủ, UBND các cấp, thành viên của cấp uỷ trong các cơ quan, đơn vị. Trước hết, cần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, theo yêu cầu tại Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó, “quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ”[13]. Từ đó, tiếp tục hoàn thiện Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nâng cao thẩm quyền của người đúng đầu trong công tác cán bộ (từ đề xuất, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật…), để có cơ sở ràng buộc trách nhiệm cá nhân người đứng đầu với chất lượng công tác cán bộ và hiệu quả hoạt động của tổ chức. Từ đó, hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng đổ lỗi cho tập thể.
3.3. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng khi hoàn thiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sau hơn 70 năm thực hiện sứ mệnh của mình, các phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng không ngừng được củng cố và phát huy trong đổi mới hệ thống chính trị. Tuy nhiên, việc phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước vẫn còn là một tồn tại cần khẩn trương hoàn thiện. Nhất là trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện và thí điểm thực hiện việc nhất thể hóa một số chức danh đứng đầu các cơ quan nhà nước với Bí thư cấp ủy. Chẳng hạn, nhất thể hóa Bí thư cấp ủy với Chủ tịch UBND cấp cơ sở, cấp huyện…; nhất thể hóa một số cơ quan của Đảng với cơ quan nhà nước có tính chất tương đồng.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Đảng cần nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác cán bộ. Từ việc giới thiệu nhân sự, đến công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá thường xuyên phẩm chất, năng lực công tác của đảng viên là người đứng đầu, thành viên cấp ủy trong các cơ quan, tổ chức. Lấy hiệu quả, chất lượng công việc của cơ quan, tổ chức làm tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực, phẩm chất của người đúng đầu và thành viên cấp ủy. Công tác cán bộ cần được coi là một nhiệm vụ quan trọng để nâng cao uy tín của Đảng.
Tóm lại, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thời gian qua luôn bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhưng quá trình đó cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải hoàn thiện nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc tập trung dân chủ trong nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước,giữ vững bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Học viện chính trị khu vực I