1. Khái quát về thương mại điện tử và pháp luật thương mại điện tử
1.1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử (E-commerce) là một phương thức mới của các giao dịch thương mại thông qua các thiết bị điện tử, các kết nối mang tính mạng lưới. Thương mại điện tử bắt đầu xuất hiện trên thế giới từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20 dưới những hình thức đơn giản nhất như thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM của các ngân hàng. Tuy nhiên, đến năm 1994 khi Tim Berners Lee phát minh ra trình duyệt internet toàn cầu world wide web (www), một phương thức kết nối, liên lạc điện tử có tính kết nối toàn cầu trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội[1], thương mại điện tử mới có những bước phát triển nhảy vọt. Năm 1997, nhanh chóng nắm bắt được tiềm năng to lớn của internet trong kinh doanh, Công ty IBM đã tung ra những mô hình kinh doanh điện tử đầu tiên trên thế giới. Cùng năm đó, Jeff Bezos đã đăng ký tên miền Amazon.com cho Công ty Amazon để hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử[2].
Ở Việt Nam, năm 1997 khi internet đã xuất hiện, đến năm 2003 khái niệm thương mại điện tử đã được biết đến như một phương thức kinh doanh mới. Cho đến nay, thương mại điện tử đã trở nên phổ biến, nói đến thương mại điện tử có thể hình dung đó là việc thực hiện các hoạt động mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thông qua mạng internet hay các phương tiện điện tử có kết nối mạng.
Theo các nhà nghiên cứu, thương mại điện tử đề cập đến “bất kỳ hình thức giao dịch kinh doanh nào mà trong đó các bên tương tác bằng công nghệ điện tử, thông qua các website hay những phần mềm ứng dụng thay vì trao đổi vật chất hoặc trực tiếp tiếp xúc cơ thể”[3].
Với quan niệm tương tự như thông lệ quốc tế, khoản 1 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử (Nghị định số 52/2013/NĐ-CP) giải thích: “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
1.2. Pháp luật thương mại điện tử
Trong công trình nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Tào Thị Quyên, Lương Tuấn Nghĩa đưa ra định nghĩa về pháp luật thương mại điện tử như sau: “Pháp luật về thương mại điện tử là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại mật thiết với nhau, được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử hoặc có liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử”[4].
Pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử bao gồm các quy phạm được quy định trong nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau như: Luật thương mại, luật dân sự, luật quốc tế, văn bản pháp luật về thương mại điện tử, luật thuế, luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, luật hành chính… Hoạt động thương mại điện tử có sự tham gia của nhiều yếu tố: Chủ thể của hoạt động, nền tảng công nghệ trong các khâu giao dịch, không gian và thời gian. Từ đó, có thể thấy, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh khi bên sở hữu nền tảng công nghệ thực hiện các hoạt động tạo ra cơ sở hạ tầng để bên mua, bên bán tìm hiểu, gặp gỡ, giao dịch thương mại. Các quan hệ xã hội này được xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt thông qua phương tiện điện tử và phụ thuộc rất lớn vào nền tảng công nghệ.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, các nhà cung cấp dịch vụ mạng cũng là chủ thể cung cấp nền tảng công nghệ, tham gia quan hệ pháp luật thương mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng tạo ra cơ sở hạ tầng kỹ thuật, là môi trường cho các giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được kết nối, thực hiện. Họ có nhiệm vụ truyền, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại, đồng thời, họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin liên quan đến giao dịch. Các bên trong quan hệ thương mại điện tử phụ thuộc rất lớn vào hạ tầng kỹ thuật để xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Việc sử dụng hạ tầng kỹ thuật là một trong các hành vi bắt buộc phải có giữa các bên tham gia giao dịch thương mại. Tuy nhiên, trên phương tiện này thì những nhà cung cấp dịch vụ mạng không chỉ kết nối các chủ thể trong giao dịch có mục đích mua bán trao đổi, họ còn kết nối những chủ thể trong các giao dịch khác như dân sự, hành chính.
Theo nghĩa hẹp, chỉ có chủ thể cung ứng dịch vụ thương mại điện tử mới là chủ thể cung ứng nền tảng công nghệ, tham gia quan hệ pháp luật thương mại điện tử. Họ là chủ thể cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử, dịch vụ khuyến mại trực tuyến, dịch vụ đấu giá trực tuyến. Dựa trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đã được thiết lập sẵn bởi các nhà cung cấp dịch vụ mạng), chủ thể cung ứng dịch vụ thương mại điện tử sẽ sử dụng nền tảng công nghệ của mình tiến hành kết nối cho các bên cung cấp hàng hóa/dịch vụ (bên bán) với bên có nhu cầu (bên mua) để họ đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử sẽ thiết lập các giao diện, ứng dụng nhằm tạo ra “chợ ảo” để bên bán và bên mua có cơ hội kết nối. Quan hệ thương mại điện tử theo nghĩa hẹp tồn tại giữa bên bán - bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử; bên mua - bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử, bên mua - bên bán. Bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử sẽ được hưởng thù lao từ hoạt động của mình.
Pháp luật thương mại điện tử gồm quan hệ pháp luật giữa những cặp chủ thể sau:
- Quan hệ giữa bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử và bên bán: Công việc của bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử là tạo điều kiện để bên mua, bên bán gặp gỡ, trao đổi, đàm phán, giao dịch với nhau.
- Quan hệ giữa bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử - bên mua: Do đặc thù hoạt động trên nền tảng công nghệ, bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử hình thành quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại điện tử với cả bên mua và bên bán.
- Quan hệ giữa chủ thể tham gia hỗ trợ giao dịch tiến hành như các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng mạng, trung gian thanh toán với các bên trong quan hệ thương mại điện tử. Trong hoạt động thương mại điện tử, các chủ thể cần thông qua nền tảng phần mềm của các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng mạng (tạm gọi là bên thứ tư, bên thứ tư không đóng vài trò trong hoạt động liên quan; bên thứ tư chỉ cung cấp hạ tầng để các bên tiến hành giao dịch và thực hiện). Bên cạnh đó, các bên còn có xu hướng sử dụng nhiều hơn tới hình thức thanh toán trực tuyến, đó là sự chuyển giao đền bù của bên mua cho bên bán qua các dịch vụ trung gian thanh toán trong giao dịch thương mại điện tử. Thanh toán trực tuyến có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau với phương tiện được dùng để thanh toán là tiền tệ, bao gồm: Nội tệ, ngoại tệ.
- Quan hệ giữa các bên trong quan hệ thương mại điện tử với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của mỗi quốc gia mà chủ thể tham gia có quốc tịch hoặc đặt trụ sở chính. Tính xuyên biên giới của hoạt động thương mại điện tử tạo ra những sự khó khăn nhất định cho các bên và các quốc gia trong việc thực hiện pháp luật. Khi các bên ở các quốc gia khác nhau tham gia vào hoạt động, hệ thống pháp luật của mỗi nước có quy định không thống nhất về quyền, nghĩa vụ, việc lưu chuyển của đồng ngoại tệ và quản lý thuế trên không gian mạng cũng như vấn đề giải quyết tranh chấp; việc quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử đặt ra nhiều thách thức với cơ quan thuế trong việc xác định doanh thu, chi phí, thu thập để có thể tiến hành quản lý tiền thuế phát sinh đối với hoạt động này vào ngân sách nhà nước sao cho bình đẳng với mô hình kinh doanh truyền thống; việc quản lý, thanh kiểm tra trong lĩnh vực thương mại điện tử xuyên biên giới gặp khó khăn bởi lĩnh vực này đòi hỏi yêu cầu cao hơn so với thanh tra thông thường; liên quan tới việc thanh toán, nội tệ là đồng tiền của quốc gia được sử dụng trong các thanh toán khu vực. Mọi thanh toán trực tuyến được thực hiện đối với các giao dịch thương mại điện tử được xác lập trong một quốc gia đều sẽ sử dụng đồng tiền của quốc gia đó làm phương tiện thanh toán. Nội tệ cũng có thể được sử dụng làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch quốc tế tùy theo quy định của từng nước. Ngoại tệ gồm đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực[5]. Tất cả những nội dung trên cần sự can thiệp, điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về pháp luật về hoạt động thương mại điện tử như sau: “Pháp luật về hoạt động thương mại điện tử là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi bên sở hữu nền tảng công nghệ thực hiện các hoạt động giúp bên mua, bên bán tìm hiểu, gặp gỡ, kết nối giao dịch thương mại. Các quan hệ xã hội này được xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt thông qua phương tiện điện tử và phụ thuộc sự ảnh hưởng rất lớn của nền tảng công nghệ của thương mại điện tử”.
2. Đặc điểm pháp luật về hoạt động thương mại điện tử
Thứ nhất, nội dung điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử gắn với các yếu tố đặc trưng là chủ thể, phương tiện, không gian
Trong hoạt động thương mại điện tử, mối quan hệ được hình thành giữa bên sở hữu nền tảng công nghệ với cả bên bán và bên mua. Môi trường không gian mạng là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện hoạt động thương mại điện tử. “Không gian mạng” là cụm từ có nhiều nguồn xây dựng khái niệm. Ví dụ: “Không gian mạng là thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ các trải nghiệm khác nhau trên thế giới trực tuyến toàn cầu của các mạng máy tính”[6]. Theo Luật An ninh mạng năm 2018, “không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khoản thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”[7]. Khâu giao kết, thực hiện, thanh toán, chấm dứt hợp đồng đều diễn ra tại đây. Tất cả những hành vi thực hiện pháp luật: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật đều phải được tiến hành trên nền tảng công nghệ, thông qua phương tiện điện tử, trong môi trường không gian mạng.
Quy phạm pháp luật về hoạt động thương mại truyền thống quy định chủ yếu xoay quanh những vấn đề về tư cách pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên, vai trò của bên mua, bên bán trong quan hệ với bên thứ ba. Nhóm các quy phạm pháp luật mang tính truyền thống tập trung chủ yếu tại Luật Thương mại và có thể điều chỉnh sâu hơn, cụ thể hơn tại các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực cụ thể như bất động sản, du lịch, bảo hiểm… Tuy nhiên, hoạt động thương mại điện tử là sự kết hợp giữa hoạt động thương mại với ứng dụng nền tảng công nghệ thông tin thông qua phương tiện điện tử. Vì vậy, các quy định của pháp luật được ban hành còn cần phù hợp với sự điều chỉnh môi trường cơ sở hạ tầng hiện đại. Phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật còn bao gồm cả các nội dung như mở rộng nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau, mở rộng nghĩa vụ của các chủ thể với cơ quan nhà nước, kỹ thuật, thanh toán, an ninh mạng, cạnh tranh…
Thứ hai, pháp luật thương mại điện tử thường lạc hậu nhanh hơn so với thực tế phát triển của hoạt động thương mại điện tử
Chúng ta đều biết ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường, ý thức pháp luật bao gồm tổng thể những học thuyết, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật. Ở thời điểm hiện tại, sự đánh giá về tính hợp pháp đối với các hành vi pháp lý vẫn có thể không dự đoán hết được những thực tế sẽ xảy ra ở tương lai. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, liên tục có những hành vi sử dụng, ứng dựng công nghệ mới, thiết bị mới vào mục đích thương mại trong khi hoàn cảnh thực tế chưa chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật về hoạt động thương mại điện tử hiện nay được đặt trong bối cảnh: (i) Sự hội nhập kinh tế sâu rộng, mạnh mẽ giữa các khu vực, các quốc gia; (ii) Sự phát triển của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo đã đạt được những thành tựu vượt bậc; (iii) Mô hình kinh tế chia sẻ đang được xem là giải pháp hữu hiệu cho các vấn đề như tiêu dùng quá mức, phân phối nguồn lực tài nguyên không hiệu quả và ô nhiễm môi trường. Những yếu tố này chi phối đến tính hiện đại và cấp thiết của pháp luật về hoạt động thương mại điện tử.
Pháp luật các quốc gia, trong đó có Việt Nam, chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố quốc tế, đòi hỏi các quy định pháp luật phải phù hợp với những chuẩn mực chung của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Việc mở rộng quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng dân chủ đã tạo điều kiện cho các chủ thể được tự do sáng tạo và khai thác quyền kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Các chủ thể biết được quyền, nghĩa vụ của mình, từ đó có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi một cách phù hợp. Pháp luật tạo cho các chủ thể khả năng sử dụng quyền đã được quy định để phục vụ lợi ích của mình, đồng thời nghĩa vụ tuân thủ để bảo đảm lợi ích của chủ thể khác. Trong quá trình thực hiện pháp luật đó, các quan hệ pháp luật thương mại điện tử liên tục được cập nhật hiện đại, ứng dụng tinh vi tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển sáng tạo của con ngườ và chúng ta lại tác động trở lại, đặt ra yêu cầu về tính dự đoán, dự báo của pháp luật.
Thứ ba, pháp luật thương mại điện tử gồm quy phạm pháp luật và quy tắc xử sự chung của các bên được Nhà nước thừa nhận (quy chế sàn giao dịch thương mại điện tử, quy chế của sàn dịch vụ khuyến mại trực tuyến, quy chế của sàn dịch vụ đấu giá trực tuyến
Pháp luật thực định gồm tất cả những quy phạm mà Nhà nước thừa nhận, đặt ra để có thể áp dụng, nhằm giải quyết các quan hệ pháp luật trong cuộc sống. Hệ thống pháp luật thương mại điện tử chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp một cách thống nhất, phù hợp với nhau theo trật tự thang bậc giá trị pháp lý của chúng. Việc xem xét hệ thống pháp luật thương mại điện tử ở phương diện này đã bao hàm trong nó tất cả các quy tắc xử sự chung và cả những quy định không phải là quy tắc xử sự, nhưng được Nhà nước thừa nhận là pháp luật. Trong đó, kể đến quy chế website, ứng dụng cung ứng dịch vụ thương mại điện tử (là website, ứng dụng của bên cung ứng dịch vụ thương mại điện tử cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua, bán, cung ứng dịch vụ trên đó). Quy chế quản lý hoạt động của website, ứng dụng cung ứng dịch vụ thương mại điện tử không chỉ tuân thủ các quy định của pháp luật quốc gia nơi sàn đăng ký hoạt động, mà còn ghi nhận sự tự do thỏa thuận giữa các bên tham gia.
Thông thường, quy chế hoạt động của website, ứng dụng cung ứng dịch vụ thương mại điện tử gồm các nội dung chủ yếu như: Quyền và nghĩa vụ của các bên; mô tả quy trình giao dịch đối với từng loại giao dịch có thể tiến hành trên sàn; hoạt động rà soát và thẩm quyền xử lý của bên trong hoạt động thương mại điện tử khi phát hiện các hành vi kinh doanh vi phạm pháp luật trên sàn; giới hạn trách nhiệm của bên trong hoạt động thương mại điện tử trong những giao dịch thực hiện nền tảng dịch vụ thương mại điện tử; các quy định về an toàn thông tin, quản lý thông tin trên nền tảng dịch vụ thương mại điện tử; cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa các bên liên quan đến giao dịch tiến hành trên nền tảng dịch vụ thương mại điện tử; biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng; chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ thương mại điện tử. Tinh thần chung, nội dung quy chế quản lý hoạt động website, ứng dụng cung ứng dịch vụ thương mại điện tử sẽ bảo đảm lợi ích chính đáng cơ bản của các bên tham gia vào hoạt động, kể cả mỗi bên có trụ sở hay quốc tịch ở các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật khác nhau, thậm chí có những quốc gia có một số quy định pháp luật xung đột với nhau. Trong không gian hoạt động thương mại phi biên giới và bối cảnh nền kinh tế số, có ý kiến cho rằng, chính quy chế quản lý hoạt động của website, ứng dụng cung ứng dịch vụ thương mại điện tử trở thành nguồn luật điều chỉnh hiệu quả trực tiếp, tác động nhanh, giải quyết được nhu cầu và nguyện vọng cấp thiết của thực tế hoạt động hơn so với việc thống nhất xây dựng các quy phạm pháp luật.
Thứ tư, pháp luật thương mại điện tử phải cân bằng giữa mục tiêu bảo đảm tính giai cấp, bảo đảm tính xã hội, phát triển kinh tế số hội nhập
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - LeNin, về bản chất, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Mỗi một kiểu nhà nước, hình thức nhà nước có tính giai cấp và tính xã hội không giống nhau. Trong khi đó, pháp luật thương mại điện tử chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố quốc tế do vị trí của chủ thể tham gia ở các quốc gia khác nhau, hàng hóa được trao đổi thanh toán giữa những vùng lãnh thổ khác nhau. Tính giai cấp cũng như tính xã hội của hệ thống pháp luật thương mại điện tử nói riêng không chỉ dừng lại ở cấp độ trong lãnh thổ quốc gia, mà còn thể hiện ở cấp độ giữa quốc gia này với các quốc gia khác trong hoạt động kinh tế số hội nhập xuyên biên giới. Sự ảnh hưởng này thể hiện trên cả hai phương diện là tích cực và khó khăn. Về phương diện tích cực, yếu tố quốc tế hiện đại đòi hỏi pháp luật cập nhật trong nội dung điều chỉnh, xu hướng xây dựng. Về phương diện khó khăn, yếu tố quốc tế đặt ra yêu cầu và thách thức đối với pháp luật mỗi quốc gia khi phải giải quyết hài hòa những vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật xuất phát từ lãnh thổ quốc gia, dung hòa thống nhất tính giai cấp và tính xã hội.
3. Bất cập trong quá trình thực thi pháp luật thương mại điện tử và phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động thương mại điện tử
3.1. Bất cập trong quá trình thực thi pháp luật thương mại điện tử
Nền tảng công nghệ mới cùng mô hình kinh tế chia sẻ khiến các khuôn khổ pháp lý cũ trở nên chật hẹp và các cơ quan quản lý nhà nước trở nên lúng túng như tranh luận về việc nhận diện mô hình kinh doanh kiểu mới: Uber, Grab, Airbnb… có phải là hoạt động môi giới thương mại điện tử hay không, tranh luận về cách thu thuế, tranh luận về thuế suất… Pháp luật đã có những quy định liên quan về hoạt động thương mại điện tử trong Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công thương và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. Trong đó, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP chủ yếu tập trung điều chỉnh liên quan đến phương tiện thực hiện hoạt động thương mại - phương tiện điện tử có kết nối mạng internet, mạng viễn thông di động, mạng mở khác, Nghị định này được xây dựng nhằm thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch thương mại điện tử được tiến hành một cách minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, qua đó tạo điều kiện để thương mại điện tử phát triển, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và xây dựng tập quán thương mại hiện đại cho Việt Nam. Nghị định được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc đặc thù: (i) Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ứng dụng thương mại điện tử; (ii) Chỉ điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù hoặc khi phát sinh trên môi trường thương mại điện tử thì có phạm vi tác động lớn hơn trong môi trường truyền thống; (iii) Bảo đảm sự bình đẳng giữa thương mại điện tử và thương mại truyền thống; (iv) Bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia thương mại điện tử là doanh nghiệp và người tiêu dùng; (v) Nguyên tắc trung lập về công nghệ để không trở thành khuôn khổ cứng nhắc, hạn chế sự phát triển và ứng dụng các công nghệ mới trong thực tiễn hoạt động thương mại điện tử vì các hành vi trên thực tiễn diễn ra trong giai đoạn tương đối dài, bối cảnh tốc độ đổi mới công nghệ diễn ra hết sức nhanh chóng[8].
Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh về hoạt động dịch vụ thương mại điện tử tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và hoạt động thương mại tại Luật Thương mại năm 2005 có những điểm bị “vênh” nhau và tạo ra những khoảng trống pháp lý, như: Nhận diện hoạt động môi giới thương mại điện tử; quản lý hoạt động thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam, nghĩa vụ đặc trưng của các bên trong quan hệ pháp luật thương mại điện tử… Với phương tiện thực hiện và cách thức thực hiện mang tính đặc trưng, nội dung của quan hệ pháp luật về thương mại điện tử cũng cần có những quy định mang tính đặc thù, khác với các quy định chung trong hoạt động thương mại truyền thống. Tính cấp thiết đặt ra chính là ở việc xây dựng cơ sở pháp lý mang tính thống nhất và tiêu chuẩn để nhận diện hoạt động thương mại điện tử không những bảo đảm tính giai cấp, tính xã hội vốn có của pháp luật mà còn cần ghi nhận đăc trưng của nền kinh tế chia sẻ trong thời đại mới, làm giảm biên chế hoạt động và tăng hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc giám sát quản lý mà vẫn tăng hiệu quả quản lý.
3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động thương mại điện tử
Thứ nhất, điều chỉnh pháp luật thương mại điện tử phải bảo đảm tính an toàn trong thương mại điện tử
An toàn và tin cậy là các yếu tố mà người tham gia hoạt động thương mại điện tử phải cân nhắc trước khi quyết định tham gia. Nếu người sử dụng cảm thấy thông tin về giao dịch của họ không được bảo đảm an toàn, có thể bị sửa đổi, họ sẽ không tham gia thương mại điện tử. Bên cạnh đó, người sử dụng cũng đặt ra các câu hỏi rằng, có gì bảo đảm để thông tin gửi đi không bị thay đổi trong quá trình gửi hay không? Làm sao chứng minh thông điệp đã được gửi hay đã được nhận? Vấn đề đặt ra là cần phải có các giải pháp để bảo đảm rằng thông tin truyền tải trên mạng không được truy cập hay sao chép bởi bên thứ ba ngoài người gửi và người nhận; xây dựng một quy trình kiểm soát thông tin và xác nhận thông tin từ đầu đến cuối của quá trình truyền tải thông tin trong giao dịch của thương mại điện tử. Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải xây dựng được hạ tầng viễn thông an toàn, trên đó có các phương tiện để bảo vệ thông tin, tránh khám phá, sử dụng trái phép. Bên cạnh đó, cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể tham gia thương mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương mại mà tính an toàn, độ tin cậy bị đe dọa như máy chủ, đường truyền… Mặt khác, pháp luật cũng cần có quy định về nhận thức của các chủ thể tham gia giao dịch phải tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kỹ thuật
Thứ hai, điều chỉnh pháp luật thương mại điện tử phải xuất phát từ quan điểm và các nguyên tắc nền tảng của pháp luật thương mại truyền thống
Quan hệ thương mại điện tử bắt nguồn từ các quan hệ thương mại truyền thống, vì vậy việc điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử cần xuất phát từ các quan điểm, nguyên tắc nền tảng của quan hệ thương mại truyền thống. Pháp luật phải bảo đảm cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại điện tử; bảo đảm các bên hoàn toàn tự nguyện, tự do thỏa thuận để xác lập các quan hệ thương mại điện tử không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội; được áp dụng thói quen đã được thiết lập giữa các bên và tập quán trong hoạt động thương mại nhưng không trái với quy định của pháp luật. Trong hoạt động thương mại điện tử, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản… Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần xác định rõ nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng như phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh, nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó.
Thứ ba, điều chỉnh pháp luật thương mại điện tử phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
Do trong hoạt động thương mại điện tử, người mua và người bán không cần gặp nhau, biết nhau nên dễ xảy ra các rủi ro và người bị thiệt thường là người tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền cho các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua qua mạng, song lại chưa biết được chất lượng thực tế của sản phẩm và việc giao hàng có diễn ra đúng như người bán đã cam kết không. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử đặt ra nhiều vấn đề quan tâm hơn so với quan hệ thương mại truyền thống.
Thứ tư, điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử phải bảo đảm tính hợp pháp trong thương mại điện tử
Trong thương mại điện tử, quy định về chữ ký điện tử, thông qua phương tiện điện tử, các yêu cầu về đặc trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này cần phải tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử, cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử, pháp luật cũng cần quy định một cơ quan trung gian có thẩm quyền chứng thực tính xác thực và bảo đảm độ tin cậy của chữ ký điện tử. Tính hợp pháp trong thương mại điện tử còn đòi hỏi ở việc phải bảo đảm tình bảo mật và tôn trọng quyền riêng tư. Cá nhân được quyền bảo đảm bí mật các thông tin về đời tư. Khi thực hiện các giao dịch thương mại điện tử, các chủ thể tham gia giao dịch thường được yêu cầu phải khai báo các thông tin cá nhân như: Số thẻ tín dụng, địa chỉ, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá nhân để phục vụ cho mục đích xác nhận, kiểm tra. Vì vậy, những thông tin về khách hàng, đặc biệt là những thông tin quan trọng như thẻ tín dụng, email, điện thoại… người bán không được tự ý lưu trữ, bán hay sử dụng trái phép thông tin này.