1. Quyền con người và các thiết chế về truyền thông quyền con người
Trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã đặt nghĩa vụ và quyền lợi của công dân lên Chương II và sau 05 lần sửa đổi, bổ sung, đến Hiến pháp năm 2013, Quyền con người mới tiếp tục được phân định rõ ràng với quyền công dân và được đề cao một bước với 36 điều tại Chương II/120 điều của Hiến pháp[1] và thể hiện sâu sắc nhất những quyền cơ bản của con người, phù hợp hơn với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên[2], như: Quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, cụ thể: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”[3], bên cạnh đó đã Hiến định các nguyên tắc thực hiện và hạn chế quyền con người, quyền công dân nói chung, trong đó có nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14) là phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Điều này thể hiện sự chuyển biến lớn trong nhận thức của Đảng, Nhà nước về vấn đề quyền con người và sự phát triển, hoàn thiện về mặt tổ chức của hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội để đáp ứng các quyền con người được hiến định.
Nhìn chung, quyền con người là phạm trù rộng, có giá trị phổ quát lớn của nhân loại và cho đến nay, không có một thiết chế xã hội nào có thể bao quát hết được. Trong lĩnh vực báo chí, truyền thông cũng vậy, các tổ chức báo chí, truyền thông thường tập trung vào những lĩnh vực chung về kinh tế - xã hội hoặc chuyên ngành có liên quan đến quyền con người mà ít có những thiết chế chuyên biệt về quyền con người (trừ những thiết chế mang phục vụ cho chính trị, quản lý nhà nước hay nghiên cứu về quyền con người). Vai trò của các thiết chế truyền thông về quyền con người là tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức và nhận thức về vấn đề nhân quyền trong các cơ quan Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, có thể phân chia 03 nhóm thết chế có liên quan đến truyền thông quyền con người như:
Một là, thiết chế truyền thông về quyền con người - các tổ chức báo chí, truyền thông
Căn cứ theo phạm vi tham gia và chịu ảnh hưởng của truyền thông để xem xét đến vai trò truyền thông quyền con người, người ta phân chia thành:
- Truyền thông cá nhân là hình thức truyền thông giữa các cá nhân với nhau. Hình thức này thường mang tính chất tự phát, theo nhu cầu cá nhân con người mà không thông qua các thiết chế truyền thông. Với sự phát triển của internet và các mạng xã hội, truyền thông cá nhân đang bùng nổ trên toàn thế giới, tạo điều kiện cho mỗi người hình thành một kênh liên lạc riêng. Nó có ý nghĩa quan trọng đã và đang làm thay đổi các phương thức truyền thông trước đây.
- Truyền thông nhóm là hình thức truyền thông hướng về số đông hơn, yêu cầu bạn truyền đạt thông tin cho cả một nhóm người chứ không phải là một cá nhân đơn thuần nữa. Truyền thông nhóm thường được áp dụng trong một nhóm, tổ chức, phụ thuộc vào quy mô của nhóm, tổ chức (có trường hợp lên đến hàng triệu người) nhưng không được công khai ra công chúng.
- Truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi hướng đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, phát thanh, internet. Đây là phương tiện và kênh truyền thông tương đối phổ biến, chính là truyền đạt thông tin mang tính chất quan trọng cho toàn thể người dân cùng được biết và tìm hiểu rõ nét hơn về nguồn thông tin đó.
Hiện nay có thể nêu ra các thiết chế truyền thông đại chúng như:
- Cơ quan báo là thiết chế truyền thông đại chúng được thành lập để xuất bản các ấn phẩm báo chí hàng ngày như: (i) Báo viết là thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, có hình ảnh minh họa; (ii) Báo điện tử là thể loại báo chí được phát hành trên các website để truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả hình ảnh động và âm thanh...
- Cơ quan tạp chí là thiết chế truyền thông có chức năng nghiên cứu, biên tập, xuất bản, phát hành các loại ấn phẩm báo chí xuất bản định kỳ, theo chuyên ngành đã đăng ký, như: Tạp chí Nghệ thuật - Mỹ nghệ; Tạp chí Mỹ thuật; Tạp chí Kinh doanh - Tài chính; Tạp chí Thời trang; Tạp chí Tôn giáo; Tạp chí Pháp luật; Tạp chí quyền con người...
- Cơ quan phát thanh truyền hình là thiết chế truyền thông đại chúng quan trọng, thực hiện chức năng báo chí thông qua các phương tiện kỹ thuật điện tử phát thanh, truyền hình, như: Đài phát thanh, Đài truyền hình, Đài phát thanh - truyền hình. Ở loại hình phát thanh này, tính thời sự (hay còn gọi là tính cấp thời) được đặt lên hàng đầu, các sự kiện nóng được đặc lên vị trí đầu tiên; tính thông tin là yếu tố cần được chú trọng khi bị giới hạn về thời gian của một chương trình, lúc này thông tin chỉ nhấn mạnh đến cái gì và ở đâu hơn là tại sao và như thế nào.
Có thể thấy, các thiết chế truyền thông được thành lập với quy mô, đặc điểm đa dạng, trên hầu hết các lĩnh vực xã hội, theo các phương thức kỹ thuật báo chí hiện có. Các thiết chế này đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và do đó liên quan trực tiếp đến các khía cạnh quyền con người (như về lĩnh vực văn hóa, pháp luật, đời sống, kinh tế, xã hội...) - một lĩnh vực có tính phổ quát, rộng lớn và phức tạp. Khi đi sâu hơn vào mục tiêu chuyên biệt về bảo vệ quyền con người thì hầu như không có nhiều thiết chế truyền thông về quyền con người hoặc có mục tiêu chủ yếu là bảo vệ quyền con người, chỉ có một số cơ quan tạp chí về quyền con người hay một số nhỏ thiết chế truyền thông có chuyên mục riêng về quyền con người; hầu hết các thiết chế truyền thông hiện nay đều xem nội dung bảo vệ quyền con người là một trong những nội dung hoạt động mà chưa phải là mục tiêu.
Hai là, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm công bố thông tin về hoạt động của mình, trong đó có thông tin về bảo vệ quyền con người
Trách nhiệm công bố thông tin, thông cáo báo chí về hoạt động của các cơ quan nhà nước là một trong những nội dung Hiến định (Quốc hội, CHính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng...). Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 một lần nữa quy định cụ thể về trách nhiệm công bố thông tin pháp luật công khai, minh bạch đến người dân bằng các hình thức như: Họp báo, thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng;
Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân dân, báo của các cơ quan bảo vệ pháp luật, báo và đài phát thanh, đài truyền hình cấp tỉnh xây dựng chương trình, chuyên trang, chuyên mục về pháp luật; đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật để phổ biến các quy định của pháp luật, tình hình thi hành pháp luật và các thông tin khác về pháp luật; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.
Ba là, các thiết chế khác (các tổ chức chính trị, xã hội)
Cùng với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu, thông tin về quyền con người đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin về quyền con người theo khía cạnh khoa học. Năm 1994, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã được thành lập, nay là Viện Nghiên cứu quyền con người, đặt nền móng cho khoa học nghiên cứu về quyền con người; các Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân thuộc Khoa Luật - Đại học Quốc gia, Ðại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh... cũng đã được thành lập, hình thành những đầu mối liên kết nghiên cứu, đào tạo với các cá nhân, tổ chức nghiên cứu, cơ sở đào tạo, các trường đại học trong nước và quốc tế về quyền con người.
2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thiết chế truyền thông trong việc bảo vệ quyền con người
Luật Báo chí được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp lần thứ 6 thông qua ngày 28/12/1989 và được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X (năm 1999). Luật đã quy định cụ thể các hình thức báo chí, truyền thông dưới góc độ “Báo”: Báo in; báo nói; báo hình; báo điện tử. Hệ thống tổ chức, nguồn nhân lực báo chí, truyền thông cả nước khá lớn, trung bình:
- Nếu tính theo đơn vị hành chính cấp xã (cập nhật đến 31/12/2008[4]): 23.000 nhà báo, phóng viên/ 32.248 đơn vị hành chính cấp xã = Trung bình 1 nhà báo, phóng viên/1,4 đơn vị hành chính cấp xã.
- Nếu tính theo đầu dân số (tại thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2014[5]): 23.000 nhà báo, phóng viên/ 90.493.000 người = Trung bình 1 nhà báo, phóng viên/ 3.934 người dân.
Với số lượng hùng hậu các cơ quan báo chí, truyền thông như trên, việc thông tin về tình hình kinh tế - xã hội có sự đa dạng cao trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; hệ thống phát thành, truyền hình gần như phủ sóng toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, “người dân Việt Nam được tiếp cận với 75 kênh truyền hình nước ngoài được phát rộng rãi trên thế giới.
Trong lĩnh vực chuyên ngành về quyền con người, pháp luật về báo chí, truyền thông không có một quy định nào về việc thành lập các thiết chế báo chí, truyền thông phục vụ cho việc tuyên truyền sâu về quyền con người, hay có chính sách khuyến khích, ưu tiên phát triển thông tin, truyền thông phục vụ quyền con người. Các thiết chế báo chí, truyền thông về quyền con người hay mở chuyên mục về quyền con người trên cơ sở các chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc theo nhu cầu tự thân[6].
Theo Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999, các tổ chức báo chí, truyền thông có 05/06 nhóm nhiệm vụ liên quan đến công tác truyền thông về bảo vệ quyền con người đó là:
- Thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân;
- Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
- Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân;
- Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác;
- Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhìn chung, hầu hết thiết chế báo chí, truyền thông đều bám sát tôn chỉ, mục đích, thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn báo chí, truyền thông theo quy định; qua đó thông tin kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến người dân; phản ánh sâu rộng tình hình thực thi quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là các vấn đề nóng, gây bức xúc trong xã hội. Nhiều thiết chế báo chí, truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến về quyền con người và bảo vệ quyền con người, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho nhân dân, kết hợp với nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền về quyền con người.
Bên cạnh những kết quả đạt được của pháp luật về các thiết chế báo chí, truyền thông trong bảo vệ quyền con người, thực tiễn thời gian qua cho thấy lĩnh vực này vẫn còn những bất cập, hạn chế sau:
- Pháp luật về truyền thông quyền con người chưa có cơ sở vững chắc để tạo lập một môi trường phát triển bền vững cho các thiết chế báo chí, truyền thông. Do đó, công tác thông tin tuyên truyền thúc đẩy về quyền con người có nơi chưa được quan tâm, đánh giá đúng mức, cùng với đó là sự phát triển nhanh và khó kiểm soát của những thông tin xuyên tạc, kích động từ các thế lực thù địch đã làm cho một bộ phận cán bộ, nhân dân nhận thức chưa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quyền con người.
- Công tác truyền thông của Việt Nam về lĩnh vực quyền con người thời gian qua rất được chú trọng nhưng chưa toàn diện và bài bản, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục.
- Pháp luật còn thiếu những quy định hạn chế và ràng buộc trách nhiệm vi phạm quyền con người từ hoạt động truyền thông, tự do báo chí, tự do ngôn luận. Không ít trường hợp, do cố ý hoặc thiếu tri thức về nhân quyền nên có bài báo, thông tin truyền thông vi phạm quyền con người, quyền tự do và quyền giữ bí mật cá nhân, gây thiệt hại cho người khác mà không bị trừng trị hoặc phải bồi thường thiệt hại.
- Thiếu những quy định về bảo vệ, bảo đảm an ninh cho các tổ chức, cá nhân vì tham gia hoạt động thông tin, truyền thông về bảo vệ quyền con người, dẫn đến những mối đe dọa thường trực hoặc làm chùn bước đối với những chủ thể này, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, những chủ thể này đang trở thành nạn nhân của nhiều hành vi phạm tội[7], của các chiến dịch bôi nhọ danh dự. Việc bảo vệ nhà báo, người cung cấp thông tin báo chí chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là tình trạng đe dọa sử dụng bạo lực đối với nhà báo còn rất cao, do đó số lượng các vụ việc vi phạm quyền con người được công khai, đưa ra công luận còn ít.
- Sự phối hợp giữa các thiết chế báo chí, truyền thông với các cơ quan nhà nước chưa được hình thành chặt chẽ, chủ yếu mang tính chất vụ việc, nên không hình thành cơ chế, quy trình xử lý thông tin, cung cấp thông tin về quyền con người cho xã hội; đã có những trường hợp, các tở báo chính thức đưa thông tin sai lệch, chậm hoặc thiếu đầy đủ về vụ việc[8]. Pháp luật vẫn chưa có các chế tài đủ mạnh buộc các cơ quan nhà nước phải cung cấp thông tin cho báo chí về những vấn đề nhạy cảm.
- “Pháp luật hiện hành về bảo đảm và thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân trong các lĩnh vực cho thấy, pháp luật chưa xác định rõ quyền tiếp cận thông tin và nội hàm của quyền tiếp cận thông tin; quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin; chưa thể hiện rõ tinh thần của Hiến pháp về trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, cũng như các nguyên tắc, điều kiện hạn chế thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Một số văn bản dưới luật có quy định mang tính hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân hoặc quy định hạn chế quyền tiếp cận thông tin không thuộc một trong các trường hợp được hạn chế theo quy định của khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013”[9].
3. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về truyền thông quyền con người
Một là, sớm thông qua bản bình luận khoa học (chính thức) về Hiến pháp năm 2013, để giải thích thống nhất về quyền con người, làm cơ sở thực thi đầy đủ các quy định Hiến pháp về quyền con người và theo các nguyên tắc quốc tế về tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế “Pacta sunt servanda” đối với quốc gia là thành viên của các điều ước quốc tế (Công ước Liên hợp quốc về quyền con người).
Hai là, hoàn thiện pháp luật về báo chí, truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng tăng cường, chú trọng hơn nội dung quyền con người. Thành lập, bổ sung chức năng mới về truyền thông bảo vệ quyền con người đối với các cơ quan báo chí, truyền thông, đặc biệt phát huy vai trò internet hiện nay thông qua việc thông tin từ các Báo điện tử, các trang thông tin điện tử riêng về giáo dục pháp luật, thông tin về quyền con người; có sự phân loại về nhóm đối tượng thụ hưởng trong tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là nhóm đối tượng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, người nghèo và đổi mới hình thức, nội dung, phương pháp tuyên truyền pháp luật.
Bổ sung quy định về tuyên truyền, bồi dưỡng, thông tin về quyền con người, pháp luật về quyền con người, đặc biệt là những quy định mang tính giới hạn thông tin, bảo đảm công lý và đồng thời với nhân phẩm con người, để nhà báo có thể nắm bắt thường xuyên, toàn diện.
Cần xác định giới hạn cung cấp thông tin trong mọi hoạt động của các thiết chế báo chí, truyền thông và nhà báo cũng như các điều kiện bảo đảm cho báo chí tác nghiệp thuận lợi, phản ánh trung thực nhất thực trạng quyền con người và góp phần bảo vệ quyền con người (hỗ trợ của chính quyền, quyền của nhà báo và các biện pháp, công cụ bảo vệ), như:
- Ban hành các đạo luật liên quan trực tiếp đến quyền con người mà hiện đang còn thiếu, như: Luật trưng cầu ý dân, Luật về lập hội...
- Sự cần thiết phải tuân thủ những hạn chế hợp pháp về tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do thông tin trong các tiêu chuẩn quốc tế.
Ba là, các giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông quyền con người:
- Thường xuyên, liên tục tuyên truyền, phổ biến pháp luật (quốc gia và quốc tế) và những kết quả về quyền con người; thông tin truyền thông cần phong phú, đa dạng; nội dung cần được mở rộng, có thể tập trung vào những chủ đề quan trọng về quyền con người. Chủ động, tích cực thực hiện công tác truyền thông một cách bài bản, tránh tình trạng lúng túng, bị động phản ứng khi có các báo cáo, nhận định chỉ trích Việt Nam...
- Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể cần cố gắng xuất bản các tài liệu hướng dẫn, phổ biến nâng cao kiến thức, nhận thức về quyền con người đồng thời tăng cường cung cấp thông tin cho báo chí về nỗ lực của Việt Nam trong vấn đề bảo đảm quyền con người, cần có chiến lược truyền thông về con người.
- Các phương tiện thông tin đại chúng của Việt Nam cũng cần cố gắng cải tiến, nâng cao hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền về quyền con người. Việc truyền thông về quyền con người trên báo chí cần tiến hành thường xuyên, liên tục, chủ động và toàn diện, mang tính thuyết phục.
- Bên cạnh đó, Nhà nước có trách nhiệm không ngừng tạo môi trường, điều kiện tốt nhất để báo chí có thể hoạt động. Đó là việc dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, khuyến khích xã hội dân sự tham gia vào việc bảo vệ nhân quyền[10]...
Nhóm nghiên cứu Đề tài
(Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học cấp Bộ "Tăng cường vai trò của thiết chế truyền thông trong bảo vệ quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam").