Thứ năm 18/12/2025 09:07
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng và các yếu tố tác động đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc

Với đối tượng đặc thù là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc, muốn đưa pháp luật đến với đồng bào, muốn để đồng bào hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch thì việc đổi mới, có giải pháp đột phá trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần bắt đầu từ nội dung, hình thức, nguồn lực đến nhận thức là cần thiết và cấp bách. Giải quyết vấn đề này không chỉ để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, phát triển thể thao, du lịch trong vùng đồng bào dân tộc thiếu số, mà qua đó còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bài trừ hủ tục lạc hậu, để đồng bào tự tin vươn lên khắc phục khó khăn, khơi dậy tiềm năng phát triển, đóng góp vào công cuộc bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia, hòa bình và bền vững.

1. Vai trò, tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới phía Bắc

Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân khu vực biên giới, hải đảo, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm ban hành các chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm đẩy mạnh việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân khu vực biên giới, hải đảo. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân có nêu rõ: “Cần bố trí một khoản ngân sách cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; có chính sách trợ giá các loại sách, tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hoặc phát miễn phí các loại sách và tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân tiếp tục nhấn mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng kinh phí, ưu tiên bố trí nguồn lực cho các nhóm đối tượng đặc thù, yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 đã xác định: Nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, ven biển, hải đảo là nhóm đối tượng đặc thù, được sự quan tâm, tăng cường thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật với nội dung, hình thức phù hợp. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 ban hành chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI), Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 phê duyệt và tổ chức thực hiện các Đề án tại Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI), trong đó có Đề án “Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2013 - 2016” và Đề án “Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”. Các Đề án này đều tập trung nguồn lực triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân tại địa bàn vùng biên giới với các lực lượng chủ công là bộ đội biên phòng và cán bộ làm công tác dân tộc. Phần lớn là các nhiệm vụ có tính giai đoạn, gắn với thực tế địa bàn, chưa có đề án, nội dung chuyên biệt, đặc thù về văn hóa, thể thao và du lịch.

Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài 1.449,566 km (trong đó đường biên giới đi theo sông, suối là 383,914 km) tiếp giáp giữa 07 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang- Quảng Tây/Trung Quốc. Phía Việt Nam có 168 xã, phường, thị trấn, 34 huyện, thị xã, thành phố biên giới. Địa hình các tỉnh tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc phức tạp, không đồng nhất[1], có nhiều dãy núi cao từ 2.000 - 3.000 m. Hệ thống núi ở phía Tây (Lai Châu, Lào Cai) đều chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có độ dốc lớn, mức độ chia cắt sâu và chia cắt ngang đều lớn. Sự phân bố dân cư các xã biên giới mang tính đặc thù của vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, địa hình bị chia cắt mạnh. Nhìn chung đây là khu vực có dân cư thưa, toàn tuyến có có 29 dân tộc sinh sống (Kinh, Tày, Thái, Hoa, Nùng, Hmông, Dao, Hà Nhì, Sán Chay, Sán Dìu, Giáy, La Chí, Phù Lá, Pà Thẻn, Lô Lô, Cơ Lao, Bố Y, Cống, Pu Péo, Khơ Mú, Lào, La Hủ, Kháng, La Ha, Lự, Mảng, Si La, Xinh Mun, Ngái). Trong đó, có những dân tộc thiểu số rất ít người, với 06/07 nhóm ngôn ngữ, bản sắc văn hóa đa dạng, đặc sắc.

Với đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc biệt là văn hóa dân tộc của đồng bào dân tộc thiểu số trên tuyến biên giới phía Bắc, có thể nhận thấy, để pháp luật đến với bản làng nơi rẻo cao của đồng bào thì công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng. Để đồng bào làm đúng, thì đồng bào phải biết, phải nghe, phải hiểu pháp luật, phải thật gần gũi và phải thật thiết thực. Làm sao để vượt qua khó khăn về điều kiện tiếp cận, hạn chế về trình độ, khả năng tiếp thu? Làm gì để khơi dậy lòng tự hào, giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào, các di sản văn hóa mà đồng bào là chủ thể, các làn điệu dân ca, dân vũ mà bà con là chủ nhân? Làm thế nào để tiếng nói, ngôn ngữ, phong tục tập quán tốt đẹp của bà con được lưu truyền, phát huy vai trò của người có uy tín? Đây không chỉ là nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền địa phương, ngành văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững của đất nước mà còn là một biện pháp hữu hiệu, gần nhất, hợp nhất để đưa pháp luật đến với đồng bào, trước hết là các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch đến với đồng bào nơi biên cương phía Bắc của Tổ quốc, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh nơi phên dậu của đất nước bằng sức mạnh của văn hóa, thế trận của lòng dân.

Hiện nay, lực lượng biên phòng, các chiến sỹ quân hàm xanh cùng các tổ đội thông tin lưu động, chiếu bóng lưu động đang thực hiện nhiều hoạt động thiết thực mang kiến thức pháp luật, văn hóa, kinh tế đến cùng đồng bào để vượt qua khó khăn, yên tâm xóa đói, giảm nghèo, phát triển đời sống kinh tế - xã hội, làm thay đổi bộ mặt của bản, làng. Tuy nhiên, cũng do điều kiện thực tế, việc triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa bàn này còn mạnh, yếu khác nhau, trong đó hoạt động văn hóa, văn nghệ chủ yếu là công cụ truyền tải kiến thức pháp luật nói chung, nhưng chưa thực sự phát huy thế mạnh, tính ưu việt để phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch với đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Trước hết là gìn giữ, phát huy di sản văn hóa, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, trong văn hóa gia đình, thể thao quần chúng, phát triển du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa… Đòi hỏi phải đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc với những luận giải khoa học, sát thực tế, có tính khả thi, hiệu quả.

2. Thực trạng, các yếu tố tác động tới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc qua khảo sát 03 tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Lào Cai

Tháng 12/2022 và tháng 03/2023, Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành khảo sát công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại 03 tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Lào Cai với tổng số 505 người. Việc khảo sát được tiến hành kỹ lưỡng, khoa học và thiết thực. Đối tượng được khảo sát rất đa dạng và phong phú, phản ánh đầy đủ các chủ thể thực hiện và chịu sự tác động của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch, với những nội dung chính, như sau:

Thứ nhất, về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện trên địa bàn tương đối phong phú, đa dạng, có 08 hình thức được chính quyền địa phương và chủ thể tổ chức tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, thể thao, du lịch đến nhân dân địa phương, trong đó 03 hình thức được sử dụng nhiều nhất: Loa truyền thanh (20,1%), họp dân (15,8%), lồng ghép qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao (14,6%). Ngoài ra các hình thức khác như: Tư vấn pháp luật, tư vấn thủ tục hành chính, tổ chức đối thoại chính sách pháp luật trong nhân dân, phát tờ rơi, tờ gấp, tổ chức hội nghị tuyên truyền ở khu dân cư, tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật cũng được tổ chức nhưng chỉ khoảng từ 8 - 12%. Có thể nhận thấy, với địa bàn vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp vẫn đang được sử dụng là phương thức chính. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế và tiếp xúc với nhân dân tại địa bàn biên giới, ngoài các hình thức nêu trên mang tính truyền thống hiện một số nơi đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội (zalo) để truyền tải, phổ biến thông tin pháp luật. Đối với vùng dân tộc thiểu số, một số thôn, bản vận động người có uy tín (già làng, trưởng bản…) biên tập nội dung, dịch sang tiếng đồng bào dân tộc thiểu số để truyền đạt đến đối tượng phù hợp.

Thứ hai, về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch có 12 chuyên ngành được thực hiện trên địa bàn, tuy nhiên có sự phân tầng rõ rệt, nhóm các chuyên ngành, lĩnh vực được chính quyền, các chủ thể quan tâm phổ biến, giáo dục pháp luật và nhóm ít được quan tâm hơn, sự chênh lệch giữa 02 nhóm này cao nhất là gấp 08 lần. 4 nhóm ngành được quan tâm phổ biến, giáo dục pháp luật là: Văn hóa cơ sở (lễ hội, việc cưới, việc tang…) (34%); bạo lực gia đình, bình đẳng giới (24,6%); văn hóa gia đình (23,2%); bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc (22,4%); 8 nhóm chuyên ngành, lĩnh vực ít được quan tâm hơn là: Di sản văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; điện ảnh; bản quyền tác giả; thư viện; thể thao; du lịch, trong đó thấp nhất là mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm (4,4%), bản quyền tác giả (4,2%). Có thể nhận thấy, với địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch được tập trung, tạo sự quan tâm vào một số chuyên ngành của lĩnh vực văn hóa phù hợp, thiết thực với người dân, bên cạnh đó lĩnh vực du lịch mặc dù cũng đang được tăng cường, đẩy mạnh phát triển vùng biên giới nhưng chưa thực sự nhận được sự quan tâm của các chủ thể.

Thứ ba, đánh giá về hạn chế của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch tại các địa phương, tác giả nhận thấy có 5 hạn chế cơ bản, trong đó: Tuyên truyền chưa gắn liền và liên hệ với phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của dân tộc, địa phương (29,3%); nội dung tuyên truyền, phổ biến chưa phù hợp, không phong phú, còn qua loa, hình thức (24,5%); trình độ, kỹ năng của người thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến chưa đảm bảo (22,3%); hình thức tuyên truyền, phổ biến chưa phù hợp, chưa gắn với nội dung, sát với nhu cầu của nhân dân (20,2%) và cuối cùng là thời điểm tổ chức các buổi tuyên truyền, phổ biến không phù hợp (3,7%). Ví dụ: Tuyên truyền vào thời điểm mùa vụ, ban ngày người dân lên nương, lao động, sản xuất.

Thứ tư, đánh giá về xác định nội dung, phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng phù hợp đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, phần lớn người dân cho rằng rất cần (57,89%); cần thiết là 41,73%; tỷ lệ người dân không cần rất ít (0,38%). Đánh giá cho thấy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch cần phải được đặc thù hóa về nội dung, phương thức để đến với đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới. Tuy rằng, người dân cơ bản nhận thức được những lợi ích mà pháp luật mang lại, nhưng việc tham dự và chủ động tham dự của họ tại các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật do các cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh tổ chức còn rất ít, số người tham dự nhiều chỉ chiếm 23,11%, còn lại đa phần người dân tham dự rất ít (68,18%) và số không tham dự là 8,71%.

Thứ năm, nhận định về hạn chế về hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật là do 06 yếu tố, trong đó, vì lý do không có môi trường, điều kiện tiếp cận pháp luật chiếm tỷ lệ cao nhất (34,7%), ngoài ra còn có các yếu tố: Bản thân không thích tìm hiểu, nâng cao hiểu biết về pháp luật; chưa chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở; nội dung pháp luật chưa đáp ứng nhu cầu tìm hiểu; hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được sử dụng một cách hiệu quả và các yếu tố khác như cần có thêm tài liệu xuống từng khu phố, cần phổ biến thường xuyên hơn.

Ngoài việc tiếp cận các thông tin pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch qua việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan, đơn vị, địa phương, người dân còn tìm hiểu, tiếp cận pháp luật thông qua 05 hình thức, trong đó, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Youtube…) đứng đầu chiếm tỷ lệ 31.79%, tiếp đến là các hình thức: Chương trình được phát sóng chính thức trên đài, các bài viết trên báo, thông qua tuyên truyền miệng của người dân xung quanh; các thông tin trên tờ rơi, tờ gấp pháp luật, các tài liệu khác do cơ quan chức năng cấp phát miễn phí và cuối cùng là đọc trực tiếp tại văn bản pháp luật cụ thể (được trang bị tại tủ sách pháp luật của địa phương, sách tự mua…) (6,17%). Điều đó cho thấy, việc người dân chủ động tìm kiếm, tiếp cận thông tin pháp luật bằng hình thức dễ thực hiện nhất, tiện lợi nhất, phù hợp với thực tế vùng biên giới là qua các trang mạng xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng, còn việc tự tìm hiểu qua tủ sách pháp luật hoặc tự mua sách còn rất hạn chế.

Từ kết quả khảo sát trên, có thể nhận thấy cần có sự chuyển hướng nội dung tập trung vào các vấn đề thời sự, vấn đề người dân quan tâm. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đổi mới, đa dạng, thiết thực, hiệu quả, hướng tới nhiều đối tượng, nhất là khu vực địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chú trọng các hình thức phù hợp với đối tượng, nội dung và điều kiện thực tế như: Tổ chức các buổi hội nghị, tập huấn, in tài liệu, cổ động trực quan, cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, đối thoại, chính sách, thông tin báo chí, cung cấp thông tin, giải đáp pháp luật trên cổng/trang thông tin điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng, thiết bị di động và môi trường mạng đảm bảo an ninh, tiết kiệm, hiệu quả.

Thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức đa dạng đã tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc tiếp cận các chính sách pháp luật của trung ương và địa phương trong lĩnh vực ngành văn hóa, thể thao, du lịch, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong việc tuân thủ, chấp hành pháp luật của nhân dân.

Với đặc thù vừa là nhiệm vụ, vừa là thế mạnh của ngành văn hóa, thể thao, du lịch, các hoạt động văn hóa, văn nghệ được lồng ghép với các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các đơn vị nghệ thuật, thiết chế văn hóa - thể thao, cơ quan, liên đoàn, hiệp hội, hội đoàn thể lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật tại các chương trình, hoạt động, sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, thể thao phù hợp với thực tế cơ sở; phát huy các sáng tác, biểu diễn nghệ thuật có chủ đề, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật với hình thức phong phú, hấp dẫn, phù hợp nhóm đối tượng, địa bàn; chú trọng đối tượng đặc thù, yếu thế, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong các sinh hoạt văn hóa dân gian, nghi lễ, tôn trọng phong tục tập quán, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng.

Qua thực tiễn và kết quả khảo sát cho thấy, một số vấn đề đặt ra cần giải quyết để đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc:

Một là, một số nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được tổ chức thực hiện với đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc còn chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, chưa thực sự phát huy lợi thế, sức mạnh của văn hóa trong phổ biến, giáo dục pháp luật; chưa nhân rộng được hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu ứng lan tỏa mạnh để phát huy vai trò chủ động tìm hiểu pháp luật của nhân dân.

Hai là, đội ngũ nhân lực thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch còn nhiều hạn chế về mặt kỹ năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đội ngũ báo cáo viên pháp luật biết ngôn ngữ dân tộc thiểu số, nhất là đội ngũ có kỹ năng, nghiệp vụ, hiểu biết về văn hóa, tập quán sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng đúng mức đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới phía Bắc.

Ba là, một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự chủ động chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch cho đồng bào dân tộc thiểu số; chưa huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và biên giới phía Bắc nên công tác này ở một số địa phương chưa thực sự được chú trọng, chưa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Tại một số nơi, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới phía Bắc chưa ý thức được đầy đủ và thực hiện tốt trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật.

Với đối tượng đặc thù là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc, muốn đưa pháp luật đến với đồng bào, muốn để đồng bào hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch thì việc đổi mới, có giải pháp đột phá trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần bắt đầu từ nội dung, hình thức, nguồn lực đến nhận thức là cần thiết và cấp bách. Giải quyết vấn đề này không chỉ để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, phát triển thể thao, du lịch trong vùng đồng bào dân tộc thiếu số, mà qua đó còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bài trừ hủ tục lạc hậu, để đồng bào tự tin vươn lên khắc phục khó khăn, khơi dậy tiềm năng phát triển, đóng góp vào công cuộc bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia, hòa bình và bền vững./.

Nguyễn Thanh Sơn

Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch


[1] Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc - Cổng thông tin đối ngoại VIETNAM.VN, tại website https://ca.vietnam.vn/chu-quyen-lanh-tho/duong-bien-gioi-tren-dat-lien-giua-viet-nam-va-trung-quoc-20210927093141409.html.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Ngày 15/11/2025, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP quy định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu (Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP). Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP là một trong những văn bản được ban hành theo cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội ngày 24/6/2025.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp là một hành trình có tính lịch sử, gắn liền và phản ánh tầm nhìn, sự chủ động của ngành Tư pháp Việt Nam qua từng giai đoạn, từ bối cảnh đất nước mới giành độc lập đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong quá trình gần 15 năm (2010 - 2025) thực hiện, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Giai đoạn 2015 - 2025, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp có bước phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước giao.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, kể từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Tư pháp luôn quán triệt, vận dụng sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Thấm nhuần lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp đã thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo động lực để cá nhân, tập thể trong toàn Ngành vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, để thực hiện nhiệm vụ được giao, lĩnh vực pháp luật dân sự - kinh tế cần định hướng cải cách sâu sắc, trong đó, nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Pháp luật phải trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ tuân thủ; ngôn ngữ luật cần đơn giản hơn, thủ tục pháp lý cần được số hóa mạnh mẽ và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cần phổ cập rộng rãi.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo dõi chúng tôi trên: