Ở Việt Nam hiện nay, từ Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 đến Luật Phá sản năm 2014, sự chuyển biến của pháp luật phá sản đã dần chuyển hướng từ tổ chức phá sản doanh nghiệp sang phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệpcó khả năng trong thủ tục phá sản. Mục tiêu “hướng vào con nợ”[1] đã được hình thành trong tư duy lập pháp ở nước ta.
Tuy nhiên, thực tế thi hành pháp luật phá sản ở nước ta nói chung và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT còn nhiều hạn chế. Qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT còn nổi lên những vấn đề sau:
1. Thực trạng pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Thứ nhất, về tiêu chí mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Luật Phá sản năm 2014 cũng đã tiếp cận một cách xác định đối tượng phá sản theo phương pháp định tính, tạo điều kiện dễ dàng mở thủ tục phá sản. Doanh nghiệp đủ điều kiện là chủ thể của pháp luật phá sản, tức là phải mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, điều đó được xác định khi doanh nghiệp “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”[2]. Căn cứ Luật Phá sản năm 2004, điểm a mục 2.1 Chương 1 Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản quy định: “Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp”.
Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không có hướng dẫn cụ thể để xác định những yếu tố tác động đến khả năng mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là một trong những vấn đề đặc thù của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, căn cứ để xác định tiêu chí doanh nghiệp phá sản nói chung có thể xác định được nhưng đi vào chi tiết, cụ thể thì chúng ta chưa có cơ sở để phân định mức độ khác nhau hoặc những đặc điểm riêng của từng DNMKNTT. Điều này cho thấy quy định pháp luật không tạo điều kiện dễ dàng ban đầu để thực hiện mục tiêu hướng về doanh nghiệp mắc nợ. Từ đó, khả năng vận dụng quy định pháp luật về phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT sẽ bị hạn chế rất lớn.
Quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án là căn cứ quan trọng đầu tiên bước vào thủ tục phá sản nói chung và trước tiên là chuẩn bị xem xét thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Thủ tục phục hồi được mở ở thời điểm nào trong quá trình giải quyết một vụ việc phá sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và được các nhà làm luật xem xét kỹ lưỡng khi xây dựng Luật Phá sản năm 2014. Khác với Luật Phá sản năm 2004 quy định Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, thì Luật Phá sản năm 2014 đã quy định Hội nghị chủ nợ là chủ thể có thẩm quyền quyết định việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh (được thể hiện trong nghị quyết Hội nghị chủ nợ). Đây là sự chuyển biến căn bản trong nhận thức về bản chất kinh tế của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên đã có sự thay thế từ thẩm quyền tố tụng sang quyền thỏa thuận giữa chủ nợ và doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, quyền tự quyết định của chủ nợ. Nó cũng góp phần hạn chế được tính chất một chiều, thiếu khách quan trong các quyết định của Tòa án và không được chính các chủ nợ, doanh nghiệp đồng tình.
Để có thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT, quá trình thực hiện thủ tục xem xét khả năng phục hồi phải đáp ứng 03 điều kiện sau:
(i) Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải là nội dung thể hiện trong nghị quyết được Hội nghị chủ nợ thông qua.
(ii) DNMKNTT phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn quy định (30 ngày kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua nghị quyết có nội dung áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh - khoản 1 Điều 87 Luật Phá sản năm 2014).
(iii) Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh phải được Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua một cách hợp lệ theo quy định tại Điều 90 Luật Phá sản năm 2014. Hậu quả pháp lý khi các nguyên tắc của thủ tục này không được thỏa mãn, Luật Phá sản đều quy định dẫn chiếu đến thủ tục phá sản doanh nghiệp ngay lập tức.
Việc xác định rõ các điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh giúp đạt mục đích, mong muốn của các chủ thể trong việc áp dụng thủ tục này; hạn chế việc áp dụng các thủ tục phục hồi đối với các trường hợp không thật sự cần thiết, làm tổn hại hơn quyền lợi của một trong các bên có liên quan. Chính việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh giúp lọc bỏ các doanh nghiệp không cần thiết phải áp dụng thủ tục này. Điều đó dẫn đến việc không phải bất kì doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh mà chỉ khi đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Khi nghiên cứu pháp luật phá sản của Mỹ, Cộng hòa Pháp cho ta thấy, pháp luật phá sản Việt Nam mới chỉ hướng đến một thủ tục mang tính chất cơ hội cho DNMKNTT được phục hồi. Nó vẫn còn thấp hơn một bước so với thủ tục “bảo hộ phá sản” của Mỹ[3] hay thủ tục bảo vệ (procédure de sauvegarde) của Cộng hòa Pháp[4] như đã nêu ở phần trên, tức là pháp luật bảo hộ cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán được phép chủ động đề xuất thủ tục phục hồi mà không cần chờ chủ nợ đồng ý thực hiện thủ tục này tại Hội nghị chủ nợ (lần thứ nhất) khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành. Đó là rào cản thứ nhất đối với khả năng phục hồi của doanh nghiệp khi mà phương án phục hồi chưa được trình ra, tức là chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp.
Thứ ba, về cơ sở về sự đồng thuận của các chủ nợ và nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Hội nghị chủ nợ lần đầu tiên thông qua nghị quyết, trong đó “đề nghị áp dụng biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp” (Điều 83) là cơ sở cho việc triển khai thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT. Hội nghị chủ nợ (lần thứ hai) thảo luận về các nội dung do Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã thông báo và ý kiến của những người tham gia Hội nghị chủ nợ về dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh do DNMKNTT trình. Có thể đánh giá vai trò của một số chủ thể trong việc xem xét dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT như sau:
- Chủ nợ - chủ thể quan trọng quyết định có hay không và việc thực hiện như thế nào phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT không được thể hiện vai trò xuyên suốt trong quá trình thực hiện phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như pháp luật các nước Mỹ, Pháp đều quy định chủ thể đại diện cho chủ nợ, thay mặt chủ nợ thực hiện các thủ tục về phá sản nói chung và phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp[5], thì pháp luật Việt Nam vẫn chưa xác định loại chủ thể đại diện này. Vai trò của Hội nghị chủ nợ trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT mới chỉ được thể hiện trong những phiên họp chính mà chưa rõ ràng trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (như phương thức biểu quyết sửa đổi phương án phục hồi, phương thức giải quyết các vấn đề đột xuất...).
- Vai trò của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã được khẳng định trong Luật Phá sản năm 2014. Đây là một trong những chế định lần đầu tiên được đưa vào trong pháp luật Việt Nam hình thành nên một nghề mới. Tuy nhiên, quy định cụ thể về phương thức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chủ thể này còn thiếu, mới chỉ dừng ở quy định chung tại Điều 16 Luật Phá sản sẽ là không đủ cho việc thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT. Hiện nay, nhiều vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của quản tài viên khiến cho chế định này hoạt động không hiệu quả như: Kinh phí, tạm ứng kinh phí để thực hiện chức năng quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp khó có khả năng bồi hoàn (ví dụ như trường hợp doanh nghiệp không còn tài sản để thanh toán[6]); cơ chế để giám sát doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi...
- Pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT chỉ chủ yếu tâp trung quy định quy trình thực hiện thủ tục mà thiếu vắng những quy định ràng buộc trách nhiệm của các bên trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT và những giải pháp hỗ trợ phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thiếu vắng các quy định này sẽ dẫn đến mất niềm tin của chủ nợ, người lao động và những chủ thể liên quan đến DNMKNTT và do đó cùng với các lý do đã phân tích ở trên, nó giải thích lý do tại sao các vụ việc phá sản doanh nghiệp thường không được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, thẩm phán phụ trách vụ việc sẽ ra quyết định công nhận nghị quyết này làm căn cứ triển khai thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, về tổ chức thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Luật Phá sản mới chỉ liệt kê chung các nhóm giải pháp về tài chính, đổi mới sản xuất kinh doanh; tái cơ cấu tổ chức bộ máy doanh nghiệp và những giải pháp đặc thù. Trừ những lĩnh vực đặc thù (như phá sản của các tổ chức tín dụng), hiện nay, chưa có những hướng dẫn cụ thể về những giải pháp này, vì vậy, có thể hiểu đây là vấn đề tự thân, tự thỏa thuận giữa các chủ nợ và DNMKNTT, pháp luật phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT không can thiệp sâu vào nội dung. Thực tế, có thể DNMKNTT không cần thiết phải thực hiện đầy đủ các nhóm giải pháp này vẫn có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Song việc thiếu những cơ chế cụ thể, đặc biệt là từ phía Nhà nước hay các chế định tài chính sẽ tạo nên khó khăn lớn cho các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đề xuất và tổ chức thực hiện một phương án phục hồi hợp lý.
Các giải pháp đặt ra trong Luật Phá sản có phạm vi thu hẹp hơn so với lý luận và khả năng có thể đạt đến được mục tiêu phục hồi doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế khả năng thi hành hiệu quả phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT.
Các hình thức giám sát của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và chủ nợ đối với doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Việc thiếu cơ sở pháp lý sẽ dẫn đến sự không chắc chắn trong bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, đặc biệt khi doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cố tình che dấu các hành vi vi phạm phương án đã được thông qua.
Thứ năm, về các biện pháp pháp lý bảo đảm khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Các biện pháp pháp lý bảo đảm khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được Luật Phá sản năm 2014 quy định bao gồm: (i) Bảo toàn tài sản, không làm xấu hơn tình hình DNMKNTT; (ii) Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT; (iii) Bổ sung chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Qua nghiên cứu cho thấy, các biện pháp trên thực tế chưa hiệu quả, chưa bảo đảm quyền của chủ nợ trong giám sát hoạt động của DNMKNTT. Ngoài chế độ báo cáo định kỳ và quy định chung về giám sát, pháp luật về phá sản vẫn còn chưa cụ thể hóa các biện pháp giám sát, các biện pháp áp dụng phát sinh trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, quyền hạn của các chủ thể giám sát, trình tự, thủ tục xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình giám sát (như thẩm quyền của Tòa án, quyền của chủ nợ, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi giám sát mà phát hiện doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh[7]) cũng không được quy định chi tiết sẽ dẫn đến những hạn chế thực tế trong quá trình bảo đảm quyền giám sát.
Luật Phá sản quy định, chỉ được coi là phục hồi hoạt động của doanh nghiệp sau khi Tòa án đã mở thủ tục phá sản. Đây là quy định có tính cứng nhắc. Trên thực tế, có vụ việc trước khi chủ nợ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, giữa doanh nghiệp và chủ nợ chưa tìm được tiếng nói, giải pháp chung trong việc xử lý nợ nên đã dẫn đến việc nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc phá sản của chủ nợ để bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, cùng với quá trình nộp đơn yêu cầu tuyên bố phả sản, chủ nợ và doanh nghiệp đều nhận thức rõ những hậu quả nếu như doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt động, tài sản của doanh nghiệp có thể không đủ để bảo đảm thanh toán các khoản nợ; chủ nợ có thể không nhận được đầy đủ các khoản nợ của mình, có chủ nợ có thể mất trắng tài sản (nhất là đối với chủ nợ không có bảo đảm)…
Chính điều đó đã thúc đẩy doanh nghiệp và chủ nợ tăng cường hơn trong việc tiếp cận các giải pháp giải quyết để đảm bảo các bên cùng có lợi, hoạt động của doanh nghiệp vẫn được duy trì, chủ nợ được thanh toán nợ... Đó là các giải pháp về tái cơ cấu nợ gắn với các phương án phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, điển hình như vụ việc Công ty cổ phần Thủy sản Bình An (Bianfishco) đã ký được biên bản thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và Ngân hàng Thương mại CP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) để mua cổ phần, giãn nợ và cấp vốn trả nợ[8]… Việc các bên lựa chọn, thống nhất được giải pháp kể cả ở giai đoạn trước khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục pháp sản hay sau khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản mà chưa ra quyết định tuyên bố phá sản đều dẫn đến việc Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc phá sản. Tuy nhiên, hậu quả việc thỏa thuận thành ở giai đoạn trước khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản và ở giai đoạn sau khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản là hoàn toàn khác nhau.
Ở giai đoạn trước khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, thiệt hại của các bên, nhất là phía DNMKNTT sẽ thấp hơn do chưa phải chịu các chi phí liên quan đến quản lý tài sản của doanh nghiệp… Còn ở giai đoạn sau khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp sẽ phải chịu các chi phí có liên quan.
Mặt khác, việc khôi phục hoạt động của DNMKNTT đôi khi phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chính doanh nghiệp đó. Nếu như yêu cầu tuyên bố phá sản do các chủ nợ thực hiện thì trong một số trường hợp DNMKNTT vẫn cố gắng tìm các giải pháp để vãn hồi hoàn cảnh, giải quyết vấn đề để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh (nếu có mong muốn). Ngược lại, nếu như DNMKNTT mong muốn giải quyết vụ việc bằng thủ tục phá sản tại Tòa án thì dường như việc đặt vấn đề khôi phục hoạt động kinh doanh của DNMKNTT sẽ trở nên khó khả thi vì chính bản thân doanh nghiệp đã phải cân nhắc, lựa chọn rất kỹ các giải pháp và giải pháp yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản được coi như là lựa chọn cuối cùng, bởi, việc phá sản sẽ ảnh hưởng để uy tín, thương hiệu của chính chủ doanh nghiệp trong các hoạt động về sau này.
Thứ sáu, về đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Kết quả thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT dẫn đến hai trường hợp đình chỉ thủ tục này. Căn cứ kết quả thực hiện theo các quy trình nếu trên, thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT dẫn đến các hậu quả pháp lý tương ứng sau:
(i) Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT do doanh nghiệp đã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
(ii) Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT do doanh nghiệp không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Căn cứ đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT được quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật Phá sản năm 2014 (điểm c quy định: “Hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vẫn mất khả năng thanh toán”) đã được quy định là căn cứ dẫn đến hậu quả tuyên bố phá sản tại khoản 2 Điều 96 nhưng lại chưa được ghi nhận đầy đủ trong khoản 2 Điều 107 về quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Đây là một thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp.
Nhìn chung, pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT tuy đã có những điểm mới tiến bộ trong Luật Phá sản năm 2014, nhưng còn những hạn chế cơ bản chưa được khắc phục. Các quy định có liên quan đến thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào việc xác định các bản chất hình thức của thủ tục mà còn thiếu đi bản chất nội dung tạo cơ sở chodoanh nghiệp chủ động triển khai phương án phục hồi; khả năng bảo hộ từ phía Nhà nước đối với DNMKNTT là không rõ nét. Có thể đánh giá pháp luật hiện hành còn hạn chế rất lớn trong việc tạo ra những cơ sở pháp lý về nội dung các giải pháp hỗ trợ/thực hiện cho thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, pháp luật hiện hành chưa tạo được cú hích nâng cao khả năng áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT so với Luật Phá sản năm 2004 (kể cả so với Luật Phá sản năm 1993). So với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia yếu về chỉ số giải quyết phá sản - một điều kiện cơ bản để quyết định thành lập công ty[9].
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn ở Việt Nam
Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý về tiêu chí, điều kiện phục hồi và sự đồng thuận của các chủ nợ về việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Với bản chất kinh tế của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, pháp luật cần đơn giản hóa căn cứ mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT theo những hướng sau:
(i) Về đối tượng là DNMKNTT, thuật ngữ “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” không bao hàm hết nghĩa “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” - một đặc trưng thực tế của hành vi không (không thể) thanh toán nợ đến hạn, do đó, cần thiết có sự sửa đổi Luật Phá sản năm 2014 theo hướng là “doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” (trong một thời hạn nhất định) là đối tượng lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật phá sản Việt Nam xác định yếu tố “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” theo tiêu chí “dòng tiền” tại Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 - một trong 03 tiêu chí xác định tình trạng mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản của các nước trên thế giới (tiêu chí định lượng, tiêu chí kế toán và tiêu chí dòng tiền). Luật Phá sản năm 2014 cũng cần bỏ quy định về điều kiện chủ nợ phải có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp…).
Khi tiến hành thủ tục phá sản, yếu tố mất khả năng thanh toán cần được xem xét ở những mức độ khác nhau khi xem xét khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để các chủ nợ xem xét kiện đòi nợ thông qua thủ tục tố tụng kinh tế nếu xác định được doanh nghiệp có khả năng trả nợ hoặc thông qua thủ tục phá sản doanh nghiệp nếu trong trường hợp doanh nghiệp không thể hay dự kiến là không thể trả nợ vì một lý do nhất định (như tài sản sẽ bị thi hành án).
(ii) Mở rộng điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thro hướng tăng quyền chủ động đề xuất phục hồi hoạt động của DNMKNTT nếu có phương án khả thi và giao cho thẩm phán quyền phán xử (cao hơn quyền phê chuẩn nghị quyết hội nghị chủ nợ) khi có căn cứ cho rằng phương án của doanh nghiệp là khả thi (có thể xác lập một tỷ lệ hợp lý đại diện tổng số nợ không có bảo đảm đồng ý với phương án phục hồi, ví dụ như: 50%). Điều này sẽ giúp pháp luật phá sản Việt Nam tiệm cận với mục tiêu hướng về doanh nghiệp mắc nợ mà vẫn bảo đảm quyền lợi của chủ nợ (tuy chưa thể bằng thủ tục bảo hộ phá sản của Hoa Kỳ, thủ tục tự vệ của Cộng hòa Pháp). Việc xác lập quyền này của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có thể được tiếp tục mở rộng hơn trên cơ sở nền kinh tế, tài chính phát triển đến những mức độ nhất định.
(iii) Thừa nhận những thỏa thuận trước khi mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản đã được doanh nghiệp đã có dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ và các chủ nợ, người lao động về việc thực hiện các phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (phương án thỏa thuận dân sự). Theo đó, trường hợp đặt ra là nếu DNMKNTT không thực hiện được phương án đã thỏa thuận theo các căn cứ đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật Phá sản, thì khi tiếp nhận đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Tòa án sẽ tiến hành thủ tục rút gọn đã được quy định tại Điều 105 Luật Phá sản năm 2014.
Trước mắt cần có cơ chế thí điểm việc tự thỏa thuận thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT. Tòa án ở đây có thể đóng vai trò chủ thể ghi nhận thỏa thuận và theo dõi, dùng làm căn cứ trong trường hợp phương án phục hồi đã thỏa thuận không được thực hiện để mở thủ tục phá sản.
(iv) Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cần được thực hiện sớm hơn so với thực tế thi hành thủ tục phá sản. Cần có một cơ chế tách bạch hơn nữa thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong thủ tục phá sản. Thực tế đã cho thấy, đây là một hạn chế rất lớn, ảnh hưởng lớn đến quyết định của các chủ nợ, DNMKNTT có áp dụng hay không thủ tục này nếu nó kéo dài quá lâu sau khi quyết định mở thủ tục phá sản và quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản rà soát, thống kê tài sản doanh nghiệp. Mặt khác, thủ tục phá sản trong pháp luật phá sản Việt Nam được xem như là một “thủ tục đòi nợ cuối cùng” và đó là tâm lý chung của chủ nợ khi yêu cầu mở thủ tục phá sản, nó khác với quan điểm quyền được bảo hộ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Do đó, để phù hợp với mục tiêu hướng về DNMKNTT trong pháp luật phá sản hiện đại, cần bổ sung quy định doanh nghiệp có dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi hay thủ tục bảo hộ phá sản như kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới. Pháp luật của Mỹ, Cộng hòa Pháp cũng cho phép DNMKNTT được quyền nộp đơn xin bảo hộ phá sản để có căn cứ đình chỉ việc trả nợ và tiến hành thỏa thuận với các chủ nợ về phương án trả nợ, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Điều này sẽ không hợp lý đối với tất cả các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản[10] vì chỉ có DNMKNTT mới có thể xác định được khả năng phục hồi và thủ tục phá sản còn cần phải tiến hành thủ tục kiểm kê, thống kê tài sản doanh nghiệp và các khoản nợ, cho vay mới có đủ căn cứ để xem xét khả năng phục hồi của doanh nghiệp.
Quy định này nếu có sẽ mang lại giải pháp tối ưu cho DNMKNTT có thể sớm thực hiện được phương án phục hồi và các chủ nợ sớm thu hồi các khoản nợ vì bớt được thời gian tố tụng (có thể kéo dài vài tháng đến hơn 01 năm). Tuy nhiên, giải pháp này dễ dẫn đến sự bị động của Tòa án trong quá trình tiếp nhận, giám sát vụ việc, đặc biệt nếu đội ngũ thẩm phán không đủ trình độ về kinh doanh.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về tổ chức thực hiện, thời hạn thực hiện, các biện pháp pháp lý, đình chỉ thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động của doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh theo hướng cụ thể hơn nữa, tạo mấu chốt quan trọng về cơ sở pháp lý bảo đảm quyền lợi của chủ nợ và cũng là nâng cao tính thực tiễn của việc thực hiện thủ tục này.
Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT còn chung chung, tập trung vào quy trình hoạt động trong thủ tục phá sản mà chưa đề cập đến cách thức thực hiện việc giám sát của chủ nợ đối với phương án phục hồi kinh doanh; quyền hạn của Tòa án, chủ nợ mà khi giám sát mà phát hiện doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Việc hoàn thiện pháp luật về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần bổ sung các nội dung, giải pháp bảo đảm quyền lợi của chủ nợ mới phát sinh trong giai đoạn doanh nghiệp tiến hành phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo tư cách chủ nợ cho các chủ nợ mới phát sinh như có tên trong danh sách chủ nợ để có quyền đòi nợ, có quyền tham gia hội nghị chủ nợ, Luật cần quy định khả năng bổ sung danh sách chủ nợ trong những trường hợp cần thiết.
Cách thức thực hiện giám sát của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và chủ nợ đối với việc thực hiện phương án phục hồi kinh doanh cũng cần được bổ sung trong văn bản hướng dẫn Luật Phá sản theo hướng tạo ra nhiều cách thức chủ động hơn nữa. Vì đây là một trong những nội dung quan trọng đặc thù quyết định tính hiệu quả và lòng tin vào thủ tục này. Đặc biệt, cần nghiên cứu bổ sung quyền hạn của Tòa án, chủ nợ khi giám sát mà phát hiện doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện phương án phục hồi kinh doanh mà chưa đến mức tuyên bố đình chỉnh thủ tục phục hồi và chuyển sang thanh lý tài sản.
Đối với các tổ chức tài chính, Ngân hàng Nhà nước cũng đang sửa đổi Thông tư số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng theo hướng tăng cường sự chủ động giám sát, áp dụng biện pháp can thiệt sớm, theo đó: Căn cứ các tài liệu, thông tin, dữ liệu về tình hình hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng và phân tích, đánh giá của đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét áp dụng can thiệp sớm đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lâm vào một trong các trường hợp theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 130a Luật Các tổ chức tín dụng. Đây là một trong những giải pháp cần thiết có thể áp dụng trong giám sát, xử lý khi thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT trong thời gian tới.
Một yếu tố quan trọng cần được hướng dẫn là xác định đặc thù tính chất của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của từng loại hình DNMKNTT. Như trên đã phân tích, mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có đặc trưng riêng về mối quan hệ giữa các dòng tiền của doanh nghiệp và các khoản nợ. Hiện nay, Luật Phá sản và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ xác định nguyên tắc chung, cùng với pháp luật về tổ chức tài chính, ngân hàng có quy định riêng biệt. Các lĩnh vực khác hầu như không có quy định trong lĩnh vực này, do đó sẽ là thiếu sót cần được bổ sung quy định điều chỉnh để bảo đảm sự phân định hiệu quả các tiêu chí về nợ và xử lý nợ trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của DNMKNTT.
Thứ ba, bổ sung quyền cho chủ nợ và cơ chế hoạt động thường xuyên cho hội nghị chủ nợ trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi
Để bảo đảm quyền của chủ nợ cũng như sự yên tâm khi thực hiện thủ tục này, pháp luật phục hồi hoạt động kinh doanh cần cung cấp cho chủ nợ các biện pháp bảo vệ bổ sung và cho phép họ tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của họ; thậm chí trong những trường hợp đặc biệt, các chủ nợ được phép phê duyệt việc bán các tài sản đáng kể của bên nợ; yêu cầu cung cấp thông tin về công việc tài chính của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào.
Trong Luật Phá sản ở nhiều nước, vai trò của chủ nợ không chỉ chủ yếu thông qua các hội nghị (hội nghị chủ nợ) mà còn được duy trì thông qua đại diện hợp pháp (như ở các nước là ủy ban). Hội nghị chủ nợ cần có thẩm quyền bầu ra một đại diện để thay mặt chủ nợ kiểm tra và thực hiện một số quyền hạn của chủ nợ. Do đó, cần bổ sung chế độ đại diện chủ nợ, nhóm chủ nợ tham gia vào quá trình giám sát hoạt động phục hồi kinh doanh của DNMKNTT.
Theo pháp luật phá sản Việt Nam, sau khi hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ. Sau đó hội nghị chủ nợ được coi là đã hoàn thành nhiệm vụ và không còn tồn tại như một thực thể pháp lý. Tuy nhiên, Luật Phá sản lại quy định quyền thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của các chủ nợ và doanh nghiệp. Thỏa thuận về việc sửa đổi bổ sung phương án hoạt động kinh doanh có giá trị pháp lý khi quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm đồng ý. Do đó, cần bổ sung quy định về cách thức thông qua việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp./.
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An