Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một quyền tài sản được Nhà nước bảo hộ[1] và đây là một loại tài sản vô hình. Trong nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu này có giá trị to lớn đối với doanh nghiệp và trong một số doanh nghiệp thì giá trị nhãn hiệu của doanh nghiệp thậm trí còn lớn hơn rất nhiều so với tài sản hữu hình của doanh nghiệp hiện có. Năm 2014, nhãn hiệu Apple được định giá khoảng 118,8 tỷ đô la, là nhãn hiệu đứng đầu trong những nhãn hiệu đắt giá nhất toàn cầu, đứng thứ hai là nhãn hiệu Google với trị giá là 107,4 tỷ đô la, nhãn hiệu Coca Cola được định giá là 81,56 tỷ đô la [2]... là những ví dụ cho thấy giá trị của nhãn hiệu. Cũng giống như những tài sản khác, tài sản trí tuệ là quyền sở hữu công nghiệp đối nhãn hiệu cũng bị xâm phạm bởi các cá nhân, tổ chức nhằm mục đích trục lợi bất hợp pháp, làm ảnh hưởng đến uy tín và sản phẩm của doanh nghiệp.
Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng ở Việt Nam, Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp pháp lý như: Dân sự, hành chính, hình sự. Trong đó, biện pháp xử lý bằng hành chính mang tính cưỡng chế nghiêm khắc. Những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Theo đó, tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sau đây thì bị xử phạt vi phạm hành chính: (i) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội; (ii) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; (iii) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này[3].
1. Thực trạng áp dụng các quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
Cụ thể hoá các quy định tại Điều 211 khoản 1,2 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp để hướng dẫn một cách cụ thể các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nói riêng và quyền sở hữu nói chung. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp do Chính phủ ban hành[4] thì trong trường hợp các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, thì cá nhân, tổ chức đó bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Nghị định số 99/2013 quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, hình thức phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm, khung, mức tiền phạt khi phạt tiền đối với từng hành vi vi phạm.
Ngoài ra, đối với các hành vi xâm phạm, tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: (i) Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; (ii) Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt nêu trên tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của tổ chức, cá nhân khác thì còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: (i) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, phương tiện kinh doanh và tiêu huỷ yếu tố vi phạm; (ii) buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Quy định này phù hợp với Điều 33 Luật Xử lý vi phạm hành chính; (iii) buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá. Biện pháp này phù hợp với quy định tại Điều 32 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; (iv) buộc tiêu huỷ hàng hoá giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý; nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý; tang vật, phương tiện vi phạm nếu không loại bỏ được yếu tố vi phạm gắn trên tang vật, phương tiện vi phạm đó; hàng hóa vi phạm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường; tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý giả mạo; tem, nhãn, bao bì, vật phẩm khác mang yếu tố vi phạm; văn bằng bảo hộ, giấy chứng nhận hoặc tài liệu khác bị sửa chữa, tẩy xóa hoặc giả mạo; (v) buộc sửa đổi, bổ sung chỉ dẫn về sở hữu công nghiệp; (vi) Buộc cải chính công khai đối với các hành vi chỉ dẫn sai về quyền sở hữu công nghiệp; (vii) buộc thu hồi tang vật, phương tiện vi phạm bị tẩu tán; (viii) buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán hoặc tiêu hủy trái quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua tình hình vi phạm pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu diễn ra ở nước ta có số lượng ngày một nhiều, xảy ra ở nhiều nơi với quy mô, số lượng sản phẩm vi phạm lớn, tính chất nguy hiểm ngày càng cao. Sự vi phạm đó đã xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh. Tình hình vi phạm pháp luật này được phản ánh trong các báo cáo xử lý của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu trong các năm vừa qua:
Năm 2012, Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã tiến hành thanh tra 69 cơ sở, đã phát hiện và xử phạt 36 trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với số tiền 859 triệu đồng. Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên 25.703 sản phẩm, buộc tiêu hủy và tịch thu tiêu hủy 7.462 sản phẩm chứa đựng các dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Riêng Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ tiến hành 38 cuộc thanh tra trong lĩnh vực này, đã phát hiện và xử lý 20 trường hợp vi phạm với tổng số tiền phạt lên tới 831 triệu đồng và đã thực thu cho ngân sách. Thanh tra Bộ đã phối hợp với Cục Quản lý thị trường xử lý 9556 trường hợp và với lực lượng cảnh sát điều tra xử lý 36 trường hợp. Năm 2013 đã tiến hành xử lý 13.037 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng và hàng hóa xâm phạm sở hữu trí tuệ[5].
Năm 2012 Ngành Hải quan có tất cả 106 đơn yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới với khoảng gần 300 nhãn hiệu hàng hóa các loại. Cơ quan hải quan đã xử lý 101 vụ, xử phạt với số tiền khoảng 300 triệu đồng, đồng thời đã tịch thu xử lý hàng chục ngàn sản phẩm vi phạm các loại (như: rượu, thuốc lá, mỹ phẩm, quần áo, điện thoại di động… xâm phạm các nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam). Năm 2013 xử lý gần 120 đơn yêu cầu của các chủ thể về quyền sở hữu trí tuệ, và bắt giữ nhiều hàng hóa xâm phạm quyền như rượi 10110000 chai, mỹ phẩm 300000 sản phẩm[6].
Theo báo cáo của Cục cảnh sát kinh tế (Bộ Công an), riêng năm 2012, lực lượng cảnh sát kinh tế của 44 tỉnh, thành phố đã phát hiện 276 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sản xuất buôn bán hàng giả, trong đó đã khởi tố 66 vụ, 74 bị can (có 26 vụ xâm phạm nhãn hiệu), phạt tiền hơn 2,4 tỷ đồng. So với năm 2011, số vụ phát hiện đã tăng 107 vụ, số vụ khởi tố tăng 48 vụ (năm 2011, lực lượng cảnh sát kinh tế đã phát hiện 169 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sản xuất, buôn bán hàng giả, 214 đối tượng, trong đó đã khởi tố 18 vụ, 30 bị can). Năm 2013, lực lượng cảnh sát kinh tế của 50 tỉnh, thành phố phát hiệu 560 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ sản xuất buôn bán hàng giả trong đó khởi tố 38 vụ với 58 bị can[7]. Có thể kể đến một số vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có tính nghiêm trọng như: (1) Vụ triệt phá đường dây sản xuất, kinh doanh phụ tùng xe máy giả mạo nhãn hiệu Honda (trị giá khoảng 500 triệu đồng) của Phòng Cảnh kinh tế - Công an TP. Hồ Chí Minh do Nguyễn Văn Nhựt cầm đầu. Cơ quan công an đã xử phạt hành chính 06 đối tượng với số tiền phạt 1,5 tỷ đồng; (2) Vụ Phòng cảnh sát kinh tế, Công an Hà Nội, triệt phá đường dây và bắt giữ Nguyễn Đức Hiển - Giám đốc Công ty cổ phần thương mại Đức Huy buôn bán hơn 5 nghìn tấn hàng (thiết bị hoa sen, vòi tắm, ước tính hơn 1 tỷ đồng) và hàng trăm bộ tem nhãn giả mạo nhãn hiệu INAX, Viglacenra, American Standard, Sơn Hà[8].
Những hành vi xâm phạm trên không những gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp mà còn có thể dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp, bởi người tiêu dùng quay lưng lại với sản phẩm của doanh nghiệp do nạn hàng giả, hàng nhái. Tình trạng sản xuất buôn bán, hàng giả, hàng nhái cũng làm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước e ngại không dám đầu tư vào Việt Nam hoặc đã đầu tư nhưng không dám mở rộng sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Cũng qua các số liệu thống kê nêu trên của các cơ quan có thẩm quyền, chúng ta cũng nhận thấy tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ngày một gia tăng, điều đó chứng tỏ các biện pháp xử lý hành chính chưa đủ hiệu quả để ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng biện pháp pháp xử lý có tính nghiêm khắc hơn để ngăn chặn loại hành vi vi phạm này.
2. Nguyên nhân của thực trạng
Qua nghiên cứu các quy định trên, cũng như thực tiễn xử lý hành chính hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chúng tôi nhận thấy những hạn chế trong việc xử lý bằng biện pháp này đối với hành vi vi phạm này xuất phát từ các vướng mắc, bất cập sau:
Thứ nhất, việc xác định đối tượng là nhãn hiệu bị giả mạo theo quy định tại khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ là khó khăn[9]: “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu là hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.” Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định thế nào là “nhãn hiệu, dấu hiệu khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó” là một việc rất khó khăn đối với người không có chuyên môn về sở hữu trí tuệ, kể cả chủ sở hữu nhãn hiệu và cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu. Chính sự vướng mắc này mà trên thực tế việc xử lý hành chính đối hành vi xâm phạm nhãn hiệu là rất hạn chế.
Trên thực tế hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền trước khi xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu đều phải tiến hành trưng cầu giám định sở hữu trí tuệ để xác định một nhãn hiệu có bị xâm phạm hay không, rồi mới xử lý, điều này phản ánh tính phức tạp, tính chuyên môn cao trong việc xác định một nhãn hiệu có bị xâm phạm hay không. Còn đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, do tính chuyên môn cao về sở hữu trí tuệ trong việc xác định nhãn hiệu có bị xâm phạm hay không, nhất là trong những trường hợp nhãn hiệu không trùng, nhưng tương tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của chủ sở hữu, thì không phải chủ sở hữu nhãn hiệu nào cũng có thể nhận biết nhãn hiệu của mình có bị xâm phạm hay không, để từ đó đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
Thứ hai, mức phạt quy định tại Điều 11 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP cũng chưa thực sự mạnh để có thể ngăn chặn người có hành vi xâm phạm thực hiện các hành xâm phạm khi mức xử phạt tối đa chỉ ở mức 250.000.000 đồng trong trường hợp hàng hoá vi phạm trên 500.000.000 đồng. Điều này là hết sức bất hợp lý khi đưa ra mức giá trị hàng hoá để làm căn cứ tính mức phạt. Đặc biệt đối với quy định tại khoản 2 Điều 11 của Nghị định số 99/2013NĐ-CP. Theo đó, đối với hành vi thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu; hành vi in dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức khác tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu; hành vi nhập khẩu hàng hoá mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, hoặc hành vi đặt hàng, giao việc thuê người khác thực hiện hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì mức phạt tiền bằng 1,2 lần mức tiền phạt tương ứng quy định từ khoản 1 đến khoản 12, nhưng không vượt quá 250.000.000 đồng. Thoạt nhìn, quy định tại khoản 13 Điều 11 có mức phạt cao hơn so với mức phạt quy định khoản từ khoản 1 đến khoản 12. Tuy nhiên mức phạt này ở mức tối đa cũng bị khống chế ở mức 250.000.000 đồng khi giá trị hàng hoá vi phạm trên 500.000.000 đồng. Như vậy, quy định mức phạt 1,2 lần theo khoản 13 nói trên chẳng thể phát huy được tác dụng như mong muốn của các nhà làm luật. Mức phạt này không tương xứng với hành vi vi phạm, do đó khiến cho tác dụng của mức phạt này không thực sự giúp cho việc bảo hộ nhãn hiệu một cách hiệu quả trên thực tế. Đồng thời trong trường hợp không xác định được giá trị của hàng hoá, dịch vụ vi phạm, thì mức phạt tiền có thể từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng cho hành vi xâm phạm nhãn hiệu. Với cách quy định tại khoản 14 Điều 11 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP không có nghĩa là điều kiện vì mục đích kinh doanh không áp dụng.
Ngoài biện pháp xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền nêu trên, biện pháp xử phạt bổ sung mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng đối với hành vi xâm phạm nhãn hiệu là đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hoá dịch vụ vi phạm từ 01 - 03 tháng.
Thứ ba, hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu… đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu[10]. Đối với hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán hàng hoá giả mạo nhãn hiệu được quy định tại Điều 12 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thì mức phạt chính được áp dụng là mức phạt tiền, tối thiểu là 4.000.000 đồng và tối đa là 250.000.000 đồng. Mặc dù không quy định vì mục đích kinh doanh như tại Điều 11 nhưng Điều 12 đã quy định mục đích của việc sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển và tàng trữ hàng hoá giả mạo này là để bán. Do vậy, mục đích kinh doanh và mục đích để bán suy cho cùng là cũng giống nhau, khi đích đến cuối cùng chính là lợi nhuận thu được từ các hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
Thứ tư, đối với hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán tem, nhãn, vật phẩm mang nhãn hiệu giả mạo thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền ở mức thấp nhất là 500.000 đồng và tối đa là 25.000.000 đồng. Đối với hành vi này, đối tượng giả mạo là tem, nhãn do đó, cần phải có số lượng hàng hoá vi phạm để căn cứ vào đó định ra mức xử phạt cụ thể. Điều 13 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định về vấn đề này không rõ ràng. Ví dụ, tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thì hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền áp dụng trong trường hợp tem nhãn đến 500 đơn vị. Nghĩa là 500 đơn vị là số nhỏ nhất để từ đó xác định hành vi xâm phạm, cho nên, nếu hành vi xâm phạm chưa đến con số này thì chưa áp dụng chế tài. Trong khi đó, Thông tư số 37/2011 lại không có quy định về số đơn vị tối thiểu về đối tượng này để có thể xử lý. Điều này dễ dàng tạo ra sự bất nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ năm, hình thức xử phạt cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện[11].
Điểm bất cập của việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hiện nay là hiệu quả không cao và mang tính hình thức[12]. Trên thực tế, người có hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu có thể dựa vào các quy định này để thực hiện hành vi xâm phạm. Chẳng hạn như quy định hành vi vi phạm lần đầu với quy mô nhỏ với hàng hoá vi phạm có số lượng đến 10 đơn vị sản phẩm và có tổng giá trị đến dưới 3.000.000 đồng thì áp dụng hình phạt cảnh cáo. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, đối với hành vi buôn bán kinh doanh trực tuyến (thông qua mạng Internet, mạng xã hội) việc một cá nhân có một lúc hơn 10 đơn vị sản phẩm là rất ít. Bởi lẽ cá nhân này chỉ là một mắt xích trong chuỗi buôn bán hàng hoá trực tuyến[13]. Do đó, rất khó khăn để có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo trong những tình huống như thế này.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
Từ những vướng mắc, bất cập nêu trên trong quá trình xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính, tác giả mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp sau đây nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hành chính trong việc bảo vệ nhãn hiệu.
Một là, cần có văn bản giải thích rõ ràng thế nào là “nhãn hiệu, dấu hiệu khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó” việc này có ý nghĩa rất lớn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thực thi một cách chủ động và chính xác. Đồng thời cũng hạn chế tình trang phải trưng cầu giám định, rút ngăn thời gian xử lý, bảo đảm quyền lợi của chủ văn bằng.
Hai là, tăng mức tiền xử phạt hành chính hiện nay. Trong một số trường hợp mặc dù pháp luật sở hữu trí tuệ cũng như các văn bản hướng dẫn đều có quy định cụ thể mức tiền phạt áp dụng đối với cá nhân tổ chức thực hiện hành vi vi phạm. Theo đó, mức phạt tiền tối đa áp dụng cho cá nhân là 250.000.000 đồng còn đối với tổ chức là gấp 2 lần đối với cá nhân - là 500.000.000 đồng. Tuy nhiên mức phạt tiền này theo nhận định của Ủy ban Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) đánh giá là quá thấp[14].
Cũng vì lý do mức phạt được thiết kế theo mức trần do đó tác dụng ngăn ngừa vi phạm thực sự có tác dụng rất thấp và có phần hạn chế. Điều này lý giải vì sao trên thực tế hành vi xâm phạm nhãn hiệu ngày càng phổ biến và lan rộng cả về quy mô lẫn số lượng. Do đó, nhằm giảm thiểu hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, việc cần thiết theo tác giả, đó chính là mức xử phạt nên được nâng cao hơn so với quy định hiện hành. Tiền phạt nên tính theo tỷ lệ với mức độ vi phạm. Và các quy định về mức phạt tối đa như hiện nay không nên được áp dụng, bởi lẽ cơ chế này đã bộc lộ những bất cập trong việc xử lý hành vi xâm phạm. Khi mức phạt không thoả đáng, thì quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu không được giải quyết triệt để và không được bảo vệ một cách triệt để.
Ba là, nên bỏ quy định xử phạt cảnh cáo đối với hành vi vi phạm các đối tượng sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nói riêng, bởi lẽ biện pháp này không có tính răn đe cao, dẫn đến người vi phạm không quan tâm. Vả lại các hành vi xâm phạm này là xâm phạm về tài sản, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, nên cần có chế tài mang tính chất tài sản áp dụng đối với người vi phạm.
Bốn là, yêu cầu về tính minh bạch trong xử lý vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, điều quan trọng nhất trong việc xử lý vi phạm hành chính đó là quá trình xử phạt hành chính cần phải minh bạch hơn. Để đáp ứng được yêu cầu này, nhất thiết các số liệu và thông tin có liên quan phải được công bố công khai. Những hồ sơ của các khoản phạt hành chính, thông tin liên quan đến đối tượng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng phải được minh bạch hơn[15]. Điều này ở một mức độ nhất định có tác dụng trong việc ngăn ngừa và cảnh báo hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
Bên cạnh đó, việc cần thiết là phải có sự lưu trữ hồ sơ đầy đủ và chính xác về các khoản phạt hành chính, các vụ tịch thu hàng hóa, tiêu hủy hàng hóa hoặc các biện pháp hành chính khác. Về vấn này, các cơ quan chức năng nên lập thành một cơ sở dữ liệu quốc gia (database) về các vấn đề trên một cách công khai. Điều này tạo điều kiện thuận lợi trong việc theo dõi, kiểm tra các chủ thể đã từng thực hiện hành vi xâm phạm nhãn hiệu. Đồng thời, trong trường hợp các chủ thể này thực hiện việc tái phạm sẽ có cơ sở để xử lý hình sự một cách thuận tiện dễ dàng.
Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hành chính để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chúng tôi đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng pháp luật hành chính. Với các biện pháp đã nêu trong bài viết này, chúng tôi hy vọng góp phần bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, lành mạnh môi trường kinh doanh qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam phát triển sâu, rộng và bền vững.
Nguyễn Xuân Quang
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh