Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ngày 18/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện BĐ thì bà Trần Thị H và Ngân hàng SG đã thỏa thuận: Bà H sẽ thanh toán số tiền 03 tỷ đồng cho Ngân hàng chậm nhất là ngày 30/5/2013; đến thời hạn thanh toán, bà H không thanh toán đầy đủ số tiền vay thì Ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất thuộc quyền sở hữu của bà H.
Đến thời hạn thanh toán, bà H vẫn không thực hiện cam kết trả nợ nên Ngân hàng đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 01/7/2013, Chi cục THADS huyện BĐ đã ra quyết định thi hành án với nội dung: Buộc bà H phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền 03 tỷ đồng; tài sản bảo đảm thi hành án cho khoản vay là quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất thuộc quyền sở hữu của bà H đã thế chấp nói trên. Quá trình thi hành vụ việc, Chi cục THADS huyện BĐ đã xác minh được biết quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất thuộc quyền sở hữu của bà H đang do gia đình ông Nguyễn Văn K quản lý, sử dụng, giữa bà H và gia đình ông K có thỏa thuận riêng về việc sử dụng này.
Do bà H không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ nên Chi cục THADS huyện BĐ đã tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất vào ngày 10/02/2014; sau đó ký kết hợp đồng với trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản để bán đấu giá theo quy định pháp luật. Sau khi tài sản bảo đảm thi hành án nói trên đã bán đấu giá thành, Chi cục THADS huyện BĐ đã thông báo cho gia đình ông K tự nguyện chuyển đi nơi khác để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Mặc dù được gia hạn nhiều lần, nhưng gia đình ông K vẫn không tự nguyện chuyển đi nơi khác, mặt khác, còn chống đối cho rằng đây là tài sản của mình. Chi cục THADS huyện BĐ đã giải thích, hướng dẫn cho gia đình ông K khởi kiện ra Tòa án nhân dân để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình nhưng gia đình ông K không thực hiện quyền khởi kiện.
Trước tình hình đó, Chi cục THADS huyện BĐ đã căn cứ áp dụng Điều 115 và Điều 117 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về cưỡng chế giao quyền sử dụng đất và cưỡng chế giao nhà, tiến hành xây dựng kế hoạch và tổ chức cưỡng chế giao tài sản cho người mua tài sản bán đấu giá. Quá trình xây dựng kế hoạch cưỡng chế và chuẩn bị tổ chức cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá, có ý kiến cho rằng, khi tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất, cơ quan THADS đồng thời phải cưỡng chế gia đình ông K ra khỏi nhà và đất nói trên để có tài sản “sạch” (tức cưỡng chế gia đình ông K ra khỏi nhà vào ngày 10/02/2014), khi bán đấu giá thành, cơ quan THADS chỉ việc tổ chức giao tài sản cho người mua. Ý kiến khác lại cho rằng, nếu cưỡng chế giao nhà thì gia đình ông K bị “đẩy” ra đường, vấn đề chỗ ở được giải quyết như thế nào? Về vấn đề này xin được trao đổi thêm trên cơ sở quy định của pháp luật và thực tiễn công tác THADS khi cơ quan THADS áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất, qua đó có thể thấy được tính nhân văn của pháp luật nước ta trong trường hợp này.
Theo quy định tại Điều 112 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì sau khi cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, chấp hành viên sẽ giao cho người hiện đang quản lý, khai thác, sử dụng được tiếp tục quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất đã kê biên. Trường hợp người đang quản lý, khai thác, sử dụng từ chối nhận thì chấp hành viên giao cho người khác. Cũng cần phân biệt về quy định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong THADS khác so với Nhà nước tổ chức cưỡng chế hành chính khi thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai được quy định tại Điều 61, Điều 62 và Điều 64 Luật Đất đai năm 2013. Khi thực hiện các mục đích trên, theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước sẽ tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước đó nhiều năm, có phương án và thực hiện đền bù, tái định cư cho nhân dân vùng giải tỏa. Trường hợp người dân khu vực này vẫn kiên quyết chống đối thì Nhà nước sẽ tổ chức cưỡng chế hành chính để có “đất sạch” trước khi triển khai dự án về quốc phòng, an ninh, kinh tế và xã hội. Như vậy, cùng là cưỡng chế nhưng đối với cưỡng chế trong THADS được thực hiện trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế kê biên của cơ quan THADS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức cụ thể; đối với cưỡng chế hành chính về đất đai được thực hiện trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đối tượng được hướng đến là lợi ích quốc gia, cộng đồng xã hội.
Về cơ sở thực tiễn, để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả trong công tác quản lý tài sản và thống nhất với quy định về tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng quyền sử dụng đất tại Điều 112 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thông thường, chấp hành viên sẽ giao cho người hiện đang quản lý, khai thác, sử dụng được tiếp tục quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất đã kê biên. Người được giao này có thể là người phải thi hành án, người thân của người phải thi hành án hoặc người được người phải thi hành án cho ở nhờ, cho thuê ở …
Sau khi bán đấu giá thành, cơ quan THADS sẽ thông báo cho người được giao quản lý, sử dụng tài sản biết để chuyển đi nơi khác trước khi tổ chức giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Khoảng thời gian từ khi cơ quan THADS tổ chức cưỡng chế kê biên đến khi giao tài sản cho người mua trúng đấu giá phụ thuộc vào quá trình bán đấu giá tài sản thi hành án, thông thường khoảng thời gian này kéo dài hơn 06 tháng, đặc biệt có những vụ việc kéo dài hơn 02 năm, trải qua nhiều lần giảm giá mới bán đấu giá thành. Như vậy, những người được chấp hành viên giao quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất bị kê biên có khoảng thời gian khá dài để tạo lập nơi ở mới trước khi chuyển đi. Như vậy, quy định của Luật Thi hành án dân sự sẽ tránh được trường hợp những người này lâm cảnh “màn trời chiếu đất” đột ngột nếu buộc phải chuyển đi tại thời điểm cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất như ý kiến được nêu ra ở trên.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và hướng dẫn của Tổng cục THADS thì trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án hoặc người được người phải thi hành án cho ở nhờ, cho thuê ở… giao cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà những người đang ở không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để những người đang ở thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.
Trong vụ việc trên, gia đình ông K có khoảng thời gian khá dài để chuẩn bị trước khi chuyển đi nơi khác, hơn nữa, nếu là nhà ở duy nhất thì có thêm một khoản tiền để tạo lập cho cuộc sống ban đầu. Với quy định hiện nay đã cho thấy tính nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta đối với người phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi cơ quan THADS áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất. Qua đó cũng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người mua tài sản bán đấu giá thành và trên hết góp phần bảo vệ công lý, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
[1]. Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, Giáo trình Công tác THADS (2013), Nxb. Tư pháp, tr. 11.
[2]. Điều 9, Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).