Có thể nói, quy định về trách nhiệm hoàn trả đã được hình thành từ rất sớm nhưng chính thức được khẳng định một cách rõ nét kể từ khi ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, BLDS năm 2005 và hiện nay chế định về hoàn trả đang được điều chỉnh bởi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (Luật TNBTCNN). Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ cung cấp thông tin sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của các quy định về trách nhiệm hoàn trả, so sánh đối chiếu các quy định của pháp luật về hoàn trả cũng như một số hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về trách nhiệm hoàn trả và đề xuất một số hướng hoàn thiện.
1. Sơ lược về sự hình thành của các quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trong pháp luật Việt Nam
Pháp luật về hoàn trả được hình thành từ sớm nhưng rõ nét là từ năm 1995 Theo đó, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đây không chỉ là nghĩa vụ của người thi hành công vụ mà đồng thời là trách nhiệm của cơ quan nhà nước yêu cầu người thi hành công vụ thực hiện, phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại, cụ thể tại Điều 623 BLDS năm 1995 về bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước gây ra quy định: “Cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu công chức, viên chức có lỗi trong khi thi hành công vụ”. Tinh thần đó, cũng được thể hiện rõ trong việc cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại cụ thể tại Điều 624 BLDS về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra quy định: “Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ”.
Để cụ thể hóa quy định tại BLDS năm 1995, Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Nghị định số 47/CP) tại Điều 12 quy định trách nhiệm hoàn trả, theo đó, công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng phải hoàn trả khoản tiền mà cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Mức hoàn trả do Thủ trưởng cơ quan đó quyết định trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng xét giải quyết việc hoàn trả bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết số 388), có quy định về nghĩa vụ hoàn trả, theo đó người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật (Điều 16). Đồng thời, về thẩm quyền quyết định hoàn trả tại Nghị quyết số 388 quy định quyền quyết định chủ yếu thuộc về cá nhân, trong đó, giao trách nhiệm xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ cho Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp nếu Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường là người có nghĩa vụ hoàn trả (Điều 17).
Tương tự như quy định tại BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 có sự kế thừa các quy định của BLDS năm 1995, theo đó trách nhiệm hoàn trả được quy định không chỉ là một nghĩa vụ của người thi hành công vụ mà là trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải yêu cầu người thi hành công vụ thực hiện: "Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức có lỗi trong khi thi hành công vụ" (Điều 619). Theo đó, Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp cán bộ, công chức thực thi công vụ gây ra thiệt hại. Đồng thời, tại Điều 620 BLDS về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, quy định: “Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ”.
Sự ra đời của Luật TNBTCNN đã tạo cơ sở pháp lý hơn nữa cho việc thực hiện xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ do có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ, đã được cụ thể tại Chương VII của Luật TNBTCNN. Đồng thời, trách nhiệm hoàn trả được chi tiết hóa tại các quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành tại Chương III của Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TNBTCNN (Nghị định số 16) và tại Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT- BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ (TTLT số 04) theo đó, quy định về căn cứ xác định mức hoàn trả; trình tự, thủ tục xem xét trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trong một số trường hợp cụ thể và hiệu lực của quyết định hoàn trả, khiếu nại, khiếu kiện quyết định hoàn trả.
2. So sánh quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các quy định trước đây về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ
Về nguyên tắc hoàn trả, cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại, sau đó yêu cầu công chức, viên chức gây ra thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Bên cạnh đó, có một số điểm khác nhau về hoàn trả:
Thứ nhất, về cơ chế xác định trách nhiệm hoàn trả
Theo quy định của Nghị định số 47/CP, Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành đều quy định cơ chế xác định trách nhiệm hoàn trả thông qua cơ chế tập thể, chỉ khác nhau về tên gọi, nếu như Nghị định số 47/CP quy định là Hội đồng xét giải quyết việc hoàn trả bồi thường thiệt hại, tại Luật TNBTCNN là Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả. Đối với quy định về thành phần, cơ chế làm việc theo hướng chỉ có chức năng tư vấn không có quyền quyết định nội dung liên quan đến hoàn trả. Trong hoạt động tố tụng hình sự có sự khác nhau tại Nghị quyết số 388, Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó Nghị quyết số 388 quy định quyền quyết định chủ yếu thuộc về cá nhân, trong đó, giao trách nhiệm xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ cho Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp nếu Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường là người có nghĩa vụ hoàn trả (Điều 17), theo Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền quyết định thuộc về Hội đồng.
Thứ hai, về yếu tố lỗi
Tương tự quy định về lỗi phải bồi thường thiệt hại khi công chức, viên chức gây ra thiệt hại thì công chức, viên chức chỉ cần có lỗi gây ra thiệt hại thì hoàn trả cho cơ quan nhà nước (Điều 623, 624 BLDS năm 1995; Điều 619, 620 BLDS năm 2005). Riêng trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật TNBTCNN có sự phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý theo đó thì người thi hành công vụ chỉ phải chịu trách nhiệm hoàn trả khi có lỗi cố ý (khoản 2 Điều 56). Khác với quy định của Luật TNBTCNN chỉ phải chịu trách nhiệm với lỗi cố ý, tại Nghị quyết số 388 không có sự phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý, theo đó người thi hành công vụ chỉ cần có lỗi thì có nghĩa vụ hoàn trả cụ thể: “Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật” (Điều 16).
Thứ ba, về căn cứ xác định mức hoàn trả
Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 47/CP, điểm 8 Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 04/6/1998 của Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ (Thông tư số 54) hướng dẫn một số điều của Nghị định số 47/CP quy định căn cứ xác định mức hoàn trả, có sự mở rộng hơn so với quy định của Luật TNBTCNN dựa trên 4 căn cứ bao gồm: Mức độ lỗi của người thi hành công vụ; mức độ thiệt hại thực tế; hoàn cảnh gia đình và nhân thân và tài sản của đương sự. Trong khi đó, theo quy định của Luật TNBTCNN quy định căn cứ xác định mức hoàn trả dựa trên 3 căn cứ bao gồm: Mức độ lỗi của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại; mức độ thiệt hại đã gây ra và điều kiện kiện kinh tế của người thi hành công vụ (Điều 57 Luật TNBTCNN và Điều 14 Nghị định số 16). Việc căn cứ vào điều kiện kiện kinh tế của người thi hành công vụ rất quan trọng để bảo đảm việc áp dụng cho phù hợp với tính thực tiễn, tránh trường hợp có quy định nhưng không có điều kiện để bảo đảm thi hành dẫn đến việc quy định chỉ là quy định không phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, tại Điều 8 TTLT số 04 quy định cụ thể định lượng số tiền bồi thường mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
Thứ tư, về mức hoàn trả
Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành có sự kế thừa quy định của Nghị quyết số 388 về việc định lượng cụ thể mức hoàn trả, theo quy định của Luật TNBTCNN cũng đã định lượng mức hoàn trả đối với trường hợp người thi hành công vụ, có sự phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý, cụ thể như sau:
1. Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự do việc thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại đó thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự.
2. Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 3 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Khác với quy định của pháp luật hiện hành, Nghị định số 47/CP không quy định mức hoàn trả mà trên cơ sở việc xem xét, đánh giá thiệt hại, xác định mức độ lỗi và khả năng kinh tế của công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và kiến nghị với Thủ trưởng cơ quan về mức hoàn trả và phương thức hoàn trả bồi thường thiệt hại. Nghị quyết số 388 quy định việc xác định mức hoàn trả và phương thức hoàn trả được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm vật chất của cán bộ, công chức (khoản 3 Điều 17 Nghị quyết số 388).
Thứ năm, về phương thức hoàn trả
Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cũng đã mở rộng hơn về phương thức hoàn trả so với quy định của Nghị quyết số 388 như trừ dần vào lương (Điều 23 Nghị định 97/1998/NĐ-CP trường hợp gây thiệt hại dưới 5 triệu đồng về nguyên tắc phải bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng cách trừ dần vào lương; nếu do vô ý thì phải bồi thường nhiều nhất là 3 tháng lương và được trừ dần vào lương hàng tháng nhưng không dưới 10% và không vượt quá 30% tổng thu nhập tiền lương và phụ cấp (nếu có)). Theo đó, các quy định của Luật TNBTCNN cũng quy định cụ thể việc hoàn trả với 3 phương thức: Việc hoàn trả có thể thực hiện việc hoàn trả một lần hoặc nhiều lần; trong trường hợp việc hoàn trả được thực hiện bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng của người thi hành công vụ thì mức tối thiểu không dưới 10% và tối đa không quá 30% thu nhập từ tiền lương hàng tháng (Điều 62 Luật TNBTCNN).
Thứ sáu, về hiệu lực của quyết định hoàn trả
So với quy định của Thông tư số 54 về hiệu lực của quyết định hoàn trả có khác so với quy định của Luật TNBTCNN: Trong trường hợp cán bộ, công chức gây thiệt hại không thống nhất với mức hoàn trả hoặc từ chối hoàn trả thì Thủ trưởng cơ quan phải lập hồ sơ yêu cầu Tòa án giải quyết (mục 10 Thông tư số 54/1998). Khác với quy định trên, Luật TNBTCNN quy định: “Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả không đồng ý với quyết định hoàn trả thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” (Điều 60 Luật TNBTCNN)
Như vậy, so với quy định trước đây thì Luật TNBTCNN đã mở rộng phạm vi để người thi hành công vụ thực hiện quyền của mình, nếu như quy định tại Thông tư số 54 thì người thi hành công vụ chỉ được quyền khởi kiện ra tòa, tuy nhiên, theo Luật TNBTCNN thì người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện đối với quyết định hoàn trả.
Thứ bảy, về việc miễn trách nhiệm hoàn trả
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 47/CP có quy định về việc miễn trách nhiệm hoàn trả, có dẫn chiếu áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 1995 cụ thể: Nguyên tắc xác định thiệt hại, mức bồi thường và mức hoàn trả khoản tiền bồi thường thiệt hại và việc miễn, giảm, hoãn hoàn trả bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Đồng thời, tại Mục 9 Thông tư số 54 có quy định: Thủ trưởng cơ quan quyết định mức hoàn trả trên cơ sở đề nghị của Hội đồng và thông báo cho công chức, viên chức gây thiệt hại biết để thực hiện theo quy định của pháp luật. Các trường hợp miễn, giảm mức bồi hoàn phải ghi rõ căn cứ pháp lý và lý do giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định của Luật TNBTCN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, hiện nay không quy định việc miễn trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.
Thứ tám, trách nhiệm hoàn trả trong một số trường hợp cụ thể
Nếu như Nghị định số 47/CP và Nghị quyết số 388 quy định còn chung chung về trường hợp đặc biệt trong hoàn trả, Luật TNBTCN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật có quy định cụ thể nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật cũng như thu hồi, bù đắp số tiền mà Nhà nước đã bỏ ra khi bồi thường cho người bị thiệt hại cũng như để giáo dục, răn đe nhằm phòng ngừa. Tại Điều 16 đến Điều 19 TTLT số 04 quy định một số trường hợp cụ thể: Trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp đã nghỉ hưu, đã chuyển công tác đến cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, không còn làm việc trong các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, kế thừa quy định tại Nghị định 47/CP, quyền của cơ quan có trách nhiệm bồi thường yêu cầu tòa án giải quyết triệt để vấn đề trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, tại Điều 20 của TTLT số 04 cũng đã có quy định cụ thể.
3. Một số hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Thứ nhất, một số quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần có sự thống nhất
- Về nghĩa vụ hoàn trả cần có sự thống nhất trong 3 hoạt động: Quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án
Tại khoản 1 Điều 56 Luật TNBTCNN đã quy định, người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 56 Luật TNBTCNN lại quy định, người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự không phải chịu trách nhiệm hoàn trả. Quy định trên trong hoạt động tố tụng hình sự như vậy là không thống nhất với các hoạt động khác như quản lý hành chính và thi hành án.Trong hoạt động tố tụng hình sự các vụ việc về bồi thường chủ yếu được xác định là do lỗi vô ý của người thi hành công vụ nên không phát sinh trách nhiệm hoàn trả. Theo Báo cáo số 552/BC-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ thì số tiền mà Nhà nước phải bồi thường trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định về việc giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật trong phạm vi cả nước đối với 3 hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án là 42 tỷ 536 triệu 450 nghìn đồng (trong đó riêng vụ ông Nguyễn Thanh Chấn, Bắc Giang số tiền 7,2 tỷ đồng). Như vậy, chỉ riêng vụ ông Chấn đã chiếm số lượng tương đối lớn về số tiền mà Nhà nước phải bồi thường, nếu trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự, khi đó người thi hành công vụ xử vụ của ông Chấn sẽ không phải bồi thường như vậy sẽ không công bằng đối với hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, không có tác dụng trong việc răn đe, phòng ngừa, cũng như không tương xứng với kinh phí Nhà nước đã chi trả cho người bị thiệt hại. Do đó, khi sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN cần quy định thống nhất về trách nhiệm hoàn trả giữa những người thi hành công vụ trong các lĩnh vực nhằm bảo đảm có sự công bằng giữa 3 hoạt động: quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.
- Chưa có sự thống nhất về thời điểm xem xét trách nhiệm hoàn trả
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật TNBTCNN quy định thì quy trình xem xét trách nhiệm hoàn trả được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước đã chi trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Quy định này hợp lý bởi sau khi chi trả cho người bị thiệt hại xong thì có cơ sở để xác định mức hoàn trả là dựa trên số tiền thực tế mà Nhà nước đã chi trả bồi thường thiệt hại, cũng như mức độ thiệt hại gây ra.
Tuy nhiên, đoạn 2 khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 09/5/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước (TTLT số 71) có quy định: “Trường hợp đối với những vụ việc phức tạp, có số tiền lớn cần phải kiểm tra xem xét, cơ quan tài chính trao đổi với cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường và cơ quan liên quan để tạm ứng kinh phí chi trả tiền bồi thường. Sau khi cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoàn chỉnh hồ sơ bồi thường, xác định trách nhiệm hoàn trả của cá nhân, tổ chức thì có văn bản gửi cơ quan tài chính để thẩm tra và thông báo dự toán ngân sách bổ sung”. Như vậy, theo quy trình quy định tại TTLT số 71 đã nêu ở trên thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trước khi thực hiện xong việc chi trả tiền bồi thường. Quy định như trên là không thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật TNBTCNN, dẫn đến hệ lụy, có thể đề nghị của cơ quan có trách nhiệm bồi thường sẽ không được chấp nhận hoặc được chấp nhận không đủ số tiền bồi thường, hoặc có thể sẽ không được phê duyệt bổ sung kinh phí bồi thường như đã đề nghị, gây khó khăn cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Từ thực tiễn này có thể xem xét khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN theo đó, cần có sự thống nhất giữa Luật và văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm tính phù hợp theo quy trình giải quyết bồi thường.
Thứ hai, cần có sự quy định cụ thể đối với một số trường hợp chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc chưa có quy định cụ thể
- Pháp luật hiện hành chưa quy định trường hợp không xác định được mức lương
Hiện nay, theo quy định của Luật TNBTCNN thì việc hoàn trả được thực hiện bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng của người thi hành công vụ, theo đó mức tối thiểu không dưới 10% và tối đa không quá 30% thu nhập từ tiền lương hàng tháng. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có trường hợp người thi hành công vụ đã nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần nên không nhận lương hưu hàng tháng, lao động tự do, không xác định được mức thu nhập…
Đối với trường hợp này, hiện chưa có quy định điều chỉnh cụ thể, phương án đề xuất để giải quyết có thể dựa trên căn cứ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định áp dụng cho công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước tại thời điểm hoàn trả làm căn cứ để xác định lương hàng tháng trên cơ sở mức lương tối thiểu hiện hành mà Nhà nước quy định, theo đó người thi hành công vụ sẽ phải hoàn trả cho ngân sách nhà nước. Như vậy, trong quá trình triển khai trên thực tiễn còn vướng mắc bởi pháp luật chưa dự liệu các trường hợp trên nên còn có khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng giải quyết. Trên cơ sở vướng mắc từ thực tiễn khi thực hiện sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN cần quy định hành lang pháp lý để giải quyết đối với những trường hợp trên.
- Quy định về xử lý kỷ luật người thi hành công vụ trong việc gây ra thiệt hại dẫn đến Nhà nước phải bồi thường
Hiện nay, việc xử lý kỷ luật người thi hành công vụ chưa được các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN quy định cụ thể về mức độ, hình thức kỷ luật hành chính tương xứng với hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại, dẫn đến việc thực hiện Luật TNBTCNN không nghiêm, chưa có tác dụng răn đe trong thực thi công vụ. Do đó, Luật TNBTCNN sửa đổi, bổ sung cần có hành lang pháp lý quy định các hình thức kỷ luật phù hợp đối với công chức có hành vi trái pháp luật làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Qua đó, nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của người thi hành công vụ, hạn chế việc phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, phòng ngừa đối với những vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ.
Nhìn chung, chế định pháp luật về hoàn trả đã hình thành từ rất sớm ngày càng được hoàn thiện hơn. Trong điều kiện hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhận thức pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao cũng như đòi hỏi ngày càng lớn của người dân, việc thực thi công vụ của công chức phải nghiêm, qua đó, từng bước nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả, hiệu quả của nền công vụ. Nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN đang là một yêu cầu quan trọng đặt ra hiện nay, nhất là trong điều kiện mà Hiến pháp năm 2013 được ban hành với nhiều quy định mới. Nhằm bảo đảm phù hợp với thực tiễn vừa bảo đảm hạn chế những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Cục Bồi thường nhà nước