Công tác tương trợ tư pháp về dân sự ngày càng thể hiện vị trí vai trò trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Kết quả này có được nhờ những nỗ lực của Vụ Pháp luật quốc tế và các cán bộ, công chức trong việc từng bước hoàn thiện thể chế trong nước và tham gia điều ước quốc tế để tạo cơ sở pháp lý một cách tổng thể cho công tác này; tổ chức thực thi, tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật, điều ước quốc tế; thiết lập cơ chế liên hệ trung ương và địa phương, Việt Nam và nước ngoài; xây dựng bộ máy, nguồn nhân lực thực hiện tương trợ tư pháp.
1. Những bước phát triển
1.1. Hoàn thiện thể chế thúc đẩy hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự
Cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự tại Việt Nam là các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với một số nước xã hội chủ nghĩa[2]. Trong giai đoạn này, tương trợ tư pháp về dân sự tại các hiệp định điều chỉnh tổng thể cả vấn đề lựa chọn luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền, công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và trình tự thủ tục thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp. Các hiệp định chỉ định cơ quan trung ương thực thi tương trợ tư pháp về dân sự của Việt Nam là Bộ Tư pháp, cơ quan trung ương thực thi tương trợ tư pháp hình sự và các lĩnh vực còn lại là Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Để có cơ sở pháp lý trong nước cho việc triển khai tổ chức thực thi các hiệp định đã ký, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên bộ số 130/TT-LB ngày 12/3/1984 của Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao về việc thi hành Hiệp định Tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự đã ký giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành trong việc thực thi các hiệp định. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 163/HTQT ngày 25/3/1993 về việc thực hiện ủy thác tư pháp của nước ngoài hướng dẫn các Tòa án cấp tỉnh thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp tống đạt giấy tờ, lấy lời khai của tòa án nước ngoài theo các hiệp định. Hai văn bản này là cơ sở pháp lý trong nước đầu tiên điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp.
Trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế, sự phát triển của giao lưu dân sự toàn cầu và yêu cầu thực tế của công tác giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, cùng với nhu cầu hợp tác trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, thực hiện phân công của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Vụ Pháp luật quốc tế đã phối hợp với các đơn vị liên quan của các bộ, ngành xây dựng và trình Chính phủ dự án Luật Tương trợ tư pháp. Luật này đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XII.
Với tư cách là một luật chuyên ngành đầu tiên về tương trợ tư pháp, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường hội nhập quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Về nội dung, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong hoạt động này, bảo đảm phù hợp với các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết cũng như thông lệ quốc tế. Riêng lĩnh vực tương trợ tư pháp về dân sự, luật đã có quy định định rõ về phạm vi, số lượng, thành phần hồ sơ, quy trình tiếp nhận và chuyển thực hiện các yêu cầu ra nước ngoài và từ nước ngoài về trong nước, về chi phí và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan. Cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành gồm 01 nghị định của Chính phủ và 05 thông tư, thông tư liên tịch, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, nâng cao hiệu quả hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực này.
Đặc biệt, trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp (Thông tư liên tịch số 15) và Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (Thông tư liên tịch số 12) thay thế Thông tư liên tịch số 15. Hai Thông tư này là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng hỗ trợ các Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp một cách bài bản, thống nhất. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 12 cũng nội luật hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam, rút ngắn thời gian thực hiện, tạo thuận lợi cho việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong nước, nhận thức được vị trí, vai trò của các điều ước quốc tế đối với hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự, đồng thời hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đẩy mạnh hội nhập quốc tế, việc “tiếp tục ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống” tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã đẩy mạnh hoạt động đề xuất ký kết các hiệp định song phương và gia nhập các công ước quốc tế trong lĩnh vực này.
Trước khi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được ban hành, Việt Nam đã ký kết 12 hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự[3]. Kể từ sau khi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được ban hành, Vụ Pháp luật quốc tế đã tham mưu lãnh đạo Bộ Tư pháp đề xuất ký kết, gia nhập 09 điều ước quốc tế, bao gồm 07 hiệp định song phương[4] và 02 công ước đa phương. Trong đó, đáng ghi nhận là việc đề xuất và trực tiếp nộp văn kiện gia nhập 02 công ước quốc tế quan trọng là Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước tống đạt) và Công ước La Hay năm 1970 về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước thu thập chứng cứ).
Công ước tống đạt có hiệu lực với Việt Nam từ 01/10/2016 tạo cơ sở pháp lý quốc tế để Việt Nam yêu cầu tống đạt giấy tờ với 80 quốc gia trên thế giới. Công ước thu thập chứng cứ có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 03/5/2020, đến nay đã có 27 quốc gia chấp nhận việc gia nhập của Việt Nam, đồng nghĩa với việc Việt Nam có quyền yêu cầu 27 quốc gia này thực hiện việc thu thập chứng cứ giải quyết các vụ việc dân sự có liên quan theo quy định của Công ước. Trước khi tham gia Công ước tống đạt Việt Nam chưa có cơ sở pháp lý quốc tế để đề nghị các quốc gia mà Việt Nam có nhu cầu cao về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự thực hiện các yêu cầu như Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Hàn Quốc, Úc, Nhật Bản ... dẫn đến hơn 60% các yêu cầu tương trợ tư pháp gửi đi nước ngoài của Việt Nam không nhận được phản hồi, thì việc gia nhập 02 công ước đã giải quyết được vướng mắc này[5]. Việc gia nhập 02 công ước không chỉ giúp Việt Nam thiết lập được quan hệ điều ước quốc tế với nhiều quốc gia cùng một lúc mà còn tiết kiệm nhân lực, nguồn lực và thời gian so với việc ký kết các hiệp định song phương.
Các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp dân sự mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và đi vào thực hiện trong những năm gần đây cùng với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong nước đã hình thành nên một cơ sở pháp lý tổng thể, toàn diện điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp, từ đó kịp thời góp phần tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các cơ quan tố tụng, cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, đồng thời xây dựng hình ảnh và nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam trong hoạt động hợp tác về tư pháp quốc tế ở cấp độ toàn cầu.
1.2. Công tác tổ chức hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự được tăng cường, việc tiếp nhận, thực hiện các yêu cầu thực sự được cải tiến và mang lại hiệu quả rõ rệt
Song song với việc hoàn thiện thể chế pháp luật, công tác tổ chức thực thi pháp luật, điều ước quốc tế được Bộ Tư pháp chú trọng, thực tế này được thể hiện qua các hoạt động cụ thể sau:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, điều ước quốc tế được thực hiện thường niên. Hàng năm, Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp cho các Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, đặc biệt khi có văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành hoặc khi Việt Nam ký, gia nhập điều ước quốc tế mới; xây dựng sổ tay, tài liệu hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp. Hoạt động này đã giúp cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp ở địa phương nắm bắt các quy định, lập hồ sơ, thực hiện tương trợ tư pháp đúng yêu cầu, hạn chế tối đa tình trạng hồ sơ có sai sót phải hoàn thiện làm kéo dài thời gian thực hiện và tốn kém chi phí. Song hành cùng với công tác tuyên truyền, phổ biến chung, trong nhiều năm gần đây, Vụ Pháp luật quốc tế đều đặn triển khai hoạt động kiểm tra tình hình tương trợ tư pháp tại các địa phương thực hiện nhiều yêu cầu tương trợ tư pháp. Bên cạnh việc kiểm tra việc tổ chức, thực thi tương trợ tư pháp tại các cơ quan được kiểm tra, đoàn kiểm tra còn trực tiếp hướng dẫn việc lập, gửi các yêu cầu tương trợ tư pháp, giải đáp vướng mắc, khó khăn thực tế về tương trợ tư pháp và tố tụng dân sự giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, đồng thời ghi nhận những kiến nghị của địa phương làm cơ sở đề xuất hoàn thiện thể chế và xây dựng phương án xử lý trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ hai, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ kế hoạch thực thi điều ước quốc tế sau khi có hiệu lực và triển khai điều ước quốc tế một cách tổng thể, toàn diện qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực tế của điều ước quốc tế. Với tư cách là đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ cơ quan Trung ương của Việt Nam trong các hiệp định, Công ước tống đạt, Công ước thu thập chứng cứ, Vụ Pháp luật quốc tế thường xuyên rà soát tình hình thực thi các điều ước đã ký kết, xây dựng và thúc đẩy cơ chế trao đổi tình hình thực thi điều ước quốc tế, rà soát, kiểm tra tình hình thực hiện các yêu cầu cụ thể thông qua cán bộ đầu mối được chỉ định. Hoạt động này đã góp phần rất lớn trong việc tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và tạo thuận lợi cho việc xử lý các yêu cầu một cách nhanh chóng, thuận lợi.
Thứ ba, ứng dụng một cách hiệu quả, linh hoạt công nghệ thông tin trong quản lý và xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp. Với khối lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp gia tăng hàng năm, năm sau nhiều hơn năm trước, từ năm 2013, Bộ Tư pháp đã xây dựng và vận hành phần mềm quản lý hồ sơ. Phần mềm đã hỗ trợ tích cực cho Vụ Pháp luật quốc tế trong việc trích xuất văn bản, tra cứu hồ sơ, theo dõi yêu cầu và thống kê số liệu phục vụ báo cáo. Bên cạnh đó, trong thời gian dịch bệnh Covid -19 bùng phát, Vụ Pháp luật quốc tế đã ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp nhận và gửi các yêu cầu tương trợ tư pháp thông qua thư điện tử của các cơ quan trung ương, nhờ đó, việc xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp không bị gián đoạn cho dù các quốc gia đóng cửa biên giới, dịch vụ bưu chính dừng phục vụ.
Hiệu quả của những hoạt động nêu trên được thể hiện rõ nhất ở công tác tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp. Số liệu thống kê hàng năm cho thấy, số yêu cầu tương trợ tư pháp Bộ Tư pháp tiếp nhận từ nước ngoài và chuyển hồ sơ để gửi ra nước ngoài ngày càng tăng. Thời điểm chưa có Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, số lượt công văn, công hàm trung bình dưới 1.000 yêu cầu/năm, đến nay con số này đã tăng lên xấp xỉ 4.000 yêu cầu[6]. Điều này có nghĩa, số yêu cầu Vụ Pháp luật quốc tế phải xử lý đã tăng từ 3,7 yêu cầu/ngày đến 14,8 yêu cầu/ngày.
Thời điểm cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, các yêu cầu tương trợ tư pháp chủ yếu gửi đến các quốc gia có điều ước quốc tế với Việt Nam thuộc khối xã hội chủ nghĩa và theo nguyên tắc có đi có lại đối với các nước khác. Đến nay, cùng với sự phát triển giao lưu quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, đặc biệt việc tham gia Công ước tống đạt và Công ước thu thập chứng cứ kéo theo sự gia tăng về số lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp.
Phương thức tiếp nhận và xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp đã được cải tiến hơn trước. Từ việc xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp thủ công, soạn thảo trên file word, lưu trữ trên file word hoặc exel, công tác phát hành văn bản gửi yêu cầu tương trợ tư pháp có lúc còn sai sót, việc tìm kiếm và tra cứu mất nhiều thời gian, thì với phần mềm quản lý hồ sơ việc xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn.
Hiệu quả giải quyết các yêu cầu tương trợ tư pháp còn thể hiện ở việc giảm đáng kể thời gian thực hiện các yêu cầu so với trước. Qua phân tích số liệu, nếu năm 2014, trung bình mỗi hồ sơ gửi ra nước ngoài mất 154 ngày có kết quả, mỗi hồ sơ nước ngoài gửi đến Việt Nam mất 117 ngày có kết quả, thì đến năm 2019, thời gian có kết quả đã được rút ngắn lần lượt còn 87 ngày và 71 ngày[7]. Việc rút ngắn thời gian thực hiện vô cùng có ý nghĩa trong việc hỗ trợ việc giải quyết các vụ việc kịp thời và nhanh chóng hơn.
Qua bức tranh sơ lược về tình hình tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự trong thời gian qua, có thể thấy công tác tương trợ tư pháp về dân sự đã ngày càng được cải thiện so với trước. Có được những thành tựu đáng kể như trên là nhờ việc xây dựng và hoàn thiện không ngừng về thể chế, pháp lý về công tác tương trợ tư pháp về dân sự, việc gia tăng đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, việc thiết lập, xây dựng cơ chế thực thi điều ước quốc tế.
1.3. Xây dựng nguồn nhân lực thực thi hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về dân sự
Sau khi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được ban hành, nhận thức được vai trò và nhiệm vụ quan trọng của hoạt động này, Vụ Pháp luật quốc tế đã thành bộ phận đảm nhiệm nhiệm vụ về quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp và vai trò đầu mối về tương trợ tư pháp về dân sự, nay là Phòng Tư pháp quốc tế và tương trợ tư pháp thuộc Vụ Pháp luật quốc tế. Đến nay, Phòng có 06 nhân sự có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học tốt và ý thức trách nhiệm cao đáp ứng yêu cầu của công việc. Bộ phận này đảm nhiệm nhiệm vụ đề xuất, xây dựng thể chế; đề xuất, trực tiếp đàm phán điều ước quốc tế; tổ chức thực thi pháp luật, điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp; đầu mối liên hệ cơ quan Trung ương nước ngoài; xử lý hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp, trả lời vướng mắc về những vụ việc tương trợ tư pháp phức tạp và tham mưu thực hiện những báo cáo về công tác tương trợ tư pháp.
Trong nhiều năm qua, Phòng Tư pháp quốc tế và Tương trợ tư pháp luôn hoàn thành nhiệm vụ, tập thể và cá nhân Phòng nhận được những đánh giá tích cực về chuyên môn của các bộ, ngành liên quan và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp ghi nhận trao bằng khen có thành tích xuất sắc trong thi hành Luật Tương trợ tư pháp và Công ước tống đạt.
2. Định hướng hoàn thiện công tác tương trợ tư pháp về dân sự
Trong thời gian tới, nhằm thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và Nghị quyết số 25-NQ/BCSĐ ngày 14/4/2022 của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về những định hướng lớn về công tác pháp luật quốc tế của Bộ Tư pháp đến năm 2030, công tác tương trợ tư pháp về dân sự tại Bộ Tư pháp cần được quan tâm hơn nữa để xứng tầm với vị trí và vai trò của mình trong bối cảnh hiện nay.
Thứ nhất, về việc thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự, cần bảo đảm nâng cao tối đa tỷ lệ số hồ sơ ủy thác tư pháp thực hiện có kết quả và rút ngắn thời gian thực hiện. Để đạt được điều đó, cần ứng dụng công nghệ thông tin triệt để để hỗ trợ cho quy trình, cắt giảm thời gian và bảo đảm chính xác. Bên cạnh đó, các chuyên viên thực hiện tiếp nhận và chuyển các yêu cầu tương trợ tư pháp cũng cần nâng cao hiệu suất xử lý mỗi hồ sơ nhưng vẫn phải bảo đảm chính xác không để xảy ra sai sót làm ảnh hướng đến tiến độ giải quyết vụ việc có liên quan.
Thứ hai, về xây dựng và hoàn thiện thể chế, hiện nay, một giải pháp đã và đang được Bộ Tư pháp thực hiện là xây dựng Luật Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Trong bối cảnh nguồn nhân lực hạn chế và ngân sách nhà nước hạn hẹp, các định hướng chính sách nhằm nâng cao hiệu quả mang tính đột phá cho công tác tương trợ tư pháp về dân sự cần được tính đến. Trong đó, cần tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự phù hợp với bối cảnh, tình hình mới của Việt Nam và quốc tế; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phối hợp liên ngành trong việc thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự; hoàn thiện quy trình, thủ tục, hồ sơ, thời gian thực hiện để nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự. Các nội dung chính sách cần hướng đến việc cắt giảm quy trình, hồ sơ, tài liệu, bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cải cách pháp luật, tư pháp.
Thứ ba, về công tác điều ước quốc tế, cần đẩy mạnh việc thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế đa phương của Hội nghị La Hay có nội dung liên quan về tư pháp quốc tế cụ thể là Công ước tống đạt giấy tờ, Công ước thu thập chứng cứ. Tăng cường nghiên cứu, đề xuất đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp, trọng tâm là với các nước đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước có quan hệ truyền thống, các nước láng giềng, các nước có đông người Việt Nam sinh sống, các nước có quan hệ hợp tác kinh tế - đầu tư phát triển với nước ta; sửa đổi các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký trước những năm 2000 cho phù hợp với pháp luật và tình hình hợp tác hiện nay; tăng cường thực thi các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp đã có hiệu lực; đẩy mạnh thiết lập kênh kết nối giữa các đơn vị thực hiện các hiệp định song phương trong đó ưu tiên đối với các nước có nhiều yêu cầu và có nhiều vướng mắc trong việc giải quyết các yêu cầu; thường xuyên trao đổi với các cơ quan trung ương của các nước để kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; tăng cường trao đổi thông tin pháp luật, tham khảo mô hình tổ chức thực hiện ưu việt tại các quốc gia.
Thứ tư, cần nâng cao nhận thức của các cơ quan, cán bộ pháp luật và tư pháp về vai trò, tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Tăng cường tổ chức thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành. Tăng cường trao đổi với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài về những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các ủy thác tư pháp với Việt Nam để có hướng xử lý thích hợp. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cần chú trọng các hoạt động theo dõi, đôn đốc thực hiện; tăng cường hướng dẫn thực hiện và tổ chức kiểm tra việc thực hiện ủy thác tư pháp nhằm phát hiện kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật liên quan.
Nhìn lại sự phát triển của công tác tương trợ tư pháp trong những năm qua, có thể thấy rõ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng về công tác hội nhập quốc tế, sự quyết liệt của các cơ quan nhà nước về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và đàm phán điều ước quốc tế nói chung và công tác tương trợ tư pháp nói riêng. Công tác tương trợ tư pháp về dân sự thực sự để lại dấu ấn cùng với sự phát triển của công tác pháp luật quốc tế tại Bộ Tư pháp và mang lại hiệu quả thiết thực cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhiều giải pháp nhằm cải tiến hơn nữa hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới cần được tính đến để công tác tương trợ tư pháp về dân sự tiếp tục khẳng định vị trí và vai trò của mình.
ThS. Trần Thị Minh Hà
Dương Thị Bích Đào
Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp
[1]. Xem Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
[2]. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ Đức ký ngày 15/12/1980 (hết hiệu lực ngày 16/4/1994); Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 10/12/1980 (đã được thay thế bằng Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga ký ngày 25/8/1998); Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tiệp Khắc ký ngày 12/10/1982 (hiện nay Cộng hòa Séc và Xlo-va-ki-a kế thừa)….
[3]. Hiệp định tương trợ tư pháp với Tiệp Khắc (hiện nay Cộng hòa Séc và Xlo-va-ki-a kế thừa), Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ba Lan, Liên bang Nga, Triều Tiên, Mông Cổ, U-cờ-rai-na, Bê-la-rút, Pháp, Trung Quốc, Lào.
[4]. Thỏa thuận với Lãnh thổ Đài Loan, Hiệp định với các nước An-giê-ri, Ca-dắc-xtan, Cam-pu-chia, Hung-ga-ri (thay thế phần dân sự của Hiệp định ký năm 1985), Lào (thay thế phần dân sự của Hiệp định ký năm 1998), Thái Lan.
[5]. Theo Báo cáo số 25/BC-BTP ngày 09/02/2022 của Bộ Tư pháp về tổng kết 05 năm thực thi Công ước tống đạt, số lượng yêu cầu gửi các nước thành viên Công ước là 5.750 yêu cầu, số yêu cầu có kết quả là 4.853/5.750 yêu cầu (đạt tỷ lệ 84,4%).
[6]. Báo cáo tổng kết công tác tương trợ tư pháp về dân sự
[7]. Nguyễn Thị Chính - Nguyễn Am Hiểu, Báo cáo nghiên cứu thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, bảo đảm quyền cho nhóm yếu thế là phụ nữ và trẻ em, năm 2019.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 385), tháng 7/2023)