Muốn chống đỡ lại nguy cơ bị bỏ tù oan, người nghi can ấy chỉ có thể trông mong vào vài nguyên tắc mong manh của nền công lý. Thứ nhất, mọi lời thú nhận tội trong quá trình điều tra không thể xem là chứng cứ đủ để buộc tội. Trách nhiệm chứng minh nghi can phạm tội là của cơ quan điều tra, nếu thiếu bằng cớ thì nghi can được suy đoán là vô tội và phải thả họ. Thứ hai, luật pháp văn minh nghiêm cấm truy bức, đánh đập, hành hạ về thể xác và tinh thần nghi can, cấm ép cung, mớm cung. Thứ ba, bắt đầu từ khi bị tạm giữ để điều tra, nghi can có quyền mời luật sư bào chữa và vị này được quyền tham gia vào tất cả các phiên lấy lời khai. Trong quá trình bào chữa, luật sư có quyền nại ra chứng cứ gỡ tội, tranh luận về giá trị của các chứng cứ được trưng ra bởi cơ quan điều tra. Dựa trên chứng cứ được nêu ra của cả hai bên buộc và gỡ tội, Tòa án cân nhắc, đánh giá và phán xét.
Những nguyên tắc đơn sơ ấy tất nhiên cũng được cam kết trong pháp luật nước ta. Chỉ có điều, sau cánh cửa trại giam là thế giới riêng của phạm nhân, dù tạm giam hay đã có án. Nước ta đã có 8.000 luật sư, họ chỉ được phép tham gia các phiên lấy cung sau khi đã trải qua những thủ tục hành chính tương đối phiền nhiễu, đặc biệt phải được cơ quan điều tra ưng thuận cho tham gia. Ngoài ra, được tham gia nghĩa là chỉ được dự và chứng kiến phiên hỏi cung, luật sư nước ta chưa quen với những thao tác chủ động điều tra và trưng ra các chứng cứ ngược lại. Họ quen đánh giá dựa trên chứng cứ do bên buộc tội đưa ra, chứ chưa có đủ quyền lực xông xáo tìm ra mọi chứng cứ gỡ tội. Thiếu những quyền năng điều tra chứng cứ ấy, cuộc đối thoại giữa bên buộc tội và luật sư bào chữa tất yếu nghiêng về cơ quan nhà nước.
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa