1. Khái niệm về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng thúc đẩy công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) phát triển, đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật TGPL nói riêng, cũng như các quy định của pháp luật nói chung. TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
2. Các quy định về chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
Chủ thể thực hiện TGPL là những thực thể được Nhà nước thành lập, công nhận để họ triển khai, thực hiện những công việc liên quan đến việc TGPL cho những đối tượng được TGPL. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, chủ thể thực hiện TGPL bao gồm: Tổ chức thực hiện TGPL[1] và người thực hiện TGPL[2].
Tổ chức thực hiện TGPL gồm: Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm; Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Biên chế và kinh phí hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định[3].
Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL phải đăng ký bằng văn bản về phạm vi, hình thức, lĩnh vực TGPL với Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt động. Đăng ký tham gia TGPL được thực hiện theo mẫu thống nhất và phù hợp với phạm vi, hình thức, lĩnh vực pháp luật được ghi trong Giấy đăng ký hoạt động. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật khi tham gia TGPL gồm: (i) Được thực hiện TGPL trong phạm vi Giấy đăng ký tham gia TGPL, phối hợp với Trung tâm TGPL nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm để thực hiện có hiện quả vụ việc TGPL; (ii) Được đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc TGPL để phục vụ thực hiện TGPL; (iii) Được giới thiệu người có yêu cầu TGPL đến Trung tâm TGPL nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm để được TGPL, từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý trong những trường hợp quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý; (iv) Được Nhà nước hỗ trợ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng TGPL cho đội ngũ người tham gia TGPL; (v) Chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện TGPL; (vi) Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL cho Sở Tư pháp nơi đăng ký; giải quyết tranh chấp trong TGPL theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và quy định khác của pháp luật có liên quan; được kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện TGPL.
Người thực hiện TGPL là luật sư, trợ giúp viên pháp lý; cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước (sau đây gọi là cộng tác viên); tư vấn viên pháp luật làm việc trong tổ chức tư vấn pháp luật (sau đây gọi là tư vấn viên pháp luật). Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được tham gia TGPL: Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích hoặc đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục hoặc quản chế hành chính; mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn ba năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực; đang bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư; bị thu hồi Giấy chứng nhận Tư vấn viên pháp luật.
Trợ giúp viên pháp lý được xác định là lực lượng của Nhà nước giữ vị trí trung tâm của chế định người thực hiện TGPL để thực hiện vai trò nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Đây là lực lượng được Nhà nước giao nhiệm vụ chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện TGPL. Trợ giúp viên pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL, có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp. Như vậy, chỉ có Trung tâm TGPL nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm mới có trợ giúp viên pháp lý, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý khác sẽ không có trợ giúp viên pháp lý và không phải tất cả những cán bộ, công chức làm việc tại Trung tâm TGPL nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm đều là trợ giúp viên pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý là một ngạch viên chức nhà nước nên toàn bộ hoạt động của trợ giúp viên pháp lý sẽ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật dành cho viên chức nhà nước. Vì vậy, ngoài các quyền và nghĩa vụ dành cho người thực hiện trợ giúp pháp lý, họ sẽ có các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của viên chức nhà nước theo quy định của Luật Viên chức.
Cộng tác viên trợ giúp pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự nguyện tham gia TGPL mà không thuộc một trong các trường hợp bị cấm theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên trong các trường hợp sau đây: Người có bằng cử nhân luật; người có bằng đại học khác làm việc trong các ngành, nghề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đây là trường hợp những người đã có bằng cử nhân luật nhưng họ lại thỏa mãn đồng thời hai điều kiện, đó là có bằng đại học khác và đang làm việc trong các ngành nghề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như ngành địa chính, tài chính, môi trường, văn hóa, giáo dục, lao động, thương binh và xã hội, làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong các tổ chức chính trị - xã hội...; người thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi có bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ ba năm trở lên hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng. Cộng tác viên tham gia TGPL theo sự phân công của Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước. Cộng tác viên không phải là luật sư chỉ tham gia TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật. Khi tham gia TGPL, cộng tác viên được hưởng chế độ bồi dưỡng và chi phí hành chính theo quy định của pháp luật.
Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về luật sư, tham gia TGPL với tư cách cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Luật sư thực hiện TGPL là những người được phép hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Luật sư tham gia thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật về luật sư[4]. Luật sư không được từ chối thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý trừ trường hợp có lý do chính đáng. Liên đoàn Luật sư Việt Nam hướng dẫn về thời gian, cách thức, hình thức thực hiện TGPL; hình thức xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm nghĩa vụ TGPL; định kỳ hàng năm đánh giá về hoạt động TGPL của luật sư, báo cáo Bộ Tư pháp[5]. Khi thực hiện TGPL miễn phí luật sư phải tận tâm với người được trợ giúp như đối với khách hàng trong những vụ việc có thù lao.
Như vậy, chủ thể thực hiện TGPL là hai lực lượng chính đó là chủ thể trong nhà nước và chủ thể ngoài nhà nước. Cách phân loại này dựa trên cơ sở nguồn tài chính chi trả cho hoạt động, vận hành của từng đối tượng chủ thể. Đối với các Trung tâm TGPL và các trợ giúp viên pháp lý, chủ thể này là do nhà nước thành lập, nhà nước phải sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước để chi trả cho hoạt động vận hành của các chủ thể này và họ là các cơ quan đơn vị sự nghiệp, họ là viên chức và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đối với các tổ chức ký hợp đồng với Sở Tư pháp các tỉnh, các cộng tác viên, luật sư… đây là các chủ thể không phải Nhà nước thành lập mà là các chủ thể được Nhà nước công nhận. Toàn bộ các nguồn tài chính để chi trả cho các hoạt động vận hành của các chủ thể này là tự họ phải bỏ ra bằng nguồn tài chính của chính họ, Nhà nước không phải bỏ ra khoản tài chính nào từ ngân sách nhà nước và họ cũng không phải là viên chức nhà nước. Đây chính là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chi phối, yếu tố chủ lực của Nhà nước và yếu tố xã hội hóa nguồn lực xã hội cho công tác TGPL.
Theo Báo cáo đánh giá kết quả 05 năm triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025[6], với mục tiêu Đề án đặt ra, các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã nâng tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý ngang bằng với tiêu chuẩn của luật sư, đồng thời, còn có quy định chuyển tiếp, trong vòng 05 năm kể từ ngày 01/01/2018 người bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý phải có chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư, nếu không sẽ bị thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý. Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức kiểm tra hết tập sự TGPL; tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý hạng II và tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp trợ giúp viên pháp lý hạng II. Ngoài ra, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách trung ương đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện tập huấn tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL và hỗ trợ cho các viên chức của Trung tâm tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn tham gia khóa đào tạo nghề luật sư. Hàng năm, ở trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng TGPL với nhiều hình thức đa dạng trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ, trẻ em gái... cho đội ngũ người thực hiện TGPL để trang bị cho các trợ giúp viên pháp lý nói riêng và người thực hiện TGPL nói chung kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao năng lực người thực hiện TGPL. Huy động nguồn lực xã hội hóa công tác TGPL, đặc biệt là sự tham gia thực hiện TGPL của luật sư là một trong những chủ thể ảnh hưởng rất lớn đến công tác TGPL. Chính vì điều này, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành quy định tăng mức bồi dưỡng thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho luật sư, tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL. Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần đổi mới về việc huy động luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất lượng. Bên cạnh việc đăng ký tham gia TGPL, Luật Trợ giúp pháp lý quy định thêm cơ chế ký hợp đồng và được chi trả thù lao khi thực hiện TGPL đã tạo thêm cơ hội, thu hút được những tổ chức chất lượng tham gia cung cấp dịch vụ TGPL[7]. Hiện nay, các Sở Tư pháp đã công bố danh sách người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Triển khai các quy định nêu trên, các địa phương đã tích cực xây dựng kế hoạch ký hợp đồng với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, lựa chọn những tổ chức, cá nhân có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật để ký hợp đồng. Tính đến hết năm 2019, trên toàn quốc có 24 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Sở Tư pháp thực hiện TGPL (trong đó có 16 tổ chức hành nghề luật sư, 08 tổ chức tư vấn pháp luật); 174 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với các Sở Tư pháp (trong đó có 143 tổ chức hành nghề luật sư, 31 tổ chức tư vấn pháp luật); 533 luật sư và 132 cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Trung tâm TGPL nhà nước. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL, Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ký Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, quy định có nội dung phối hợp trong việc giới thiệu và lựa chọn luật sư tham gia TGPL, đánh giá chất lượng TGPL. Căn cứ vào Quy chế phối hợp này, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố phối hợp hoặc chỉ đạo Trung tâm TGPL nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình phối hợp với Đoàn luật sư xây dựng quy chế phối hợp trong công tác TGPL với những hoạt động cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn của các địa phương. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã ký kết với các chương trình phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam giai đoạn 2018 - 2023, với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh giai đoạn 2018 - 2022..., trong đó có phối hợp trong việc thông tin, giới thiệu người được TGPL đến Trung tâm TGPL nhà nước.
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chủ thể trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý trong nhà nước cần phải được kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của những đối tượng được TGPL với mục đích hướng đến là Nhà nước giảm dần sự tham gia trực tiếp vào các vụ việc TGPL thông qua các trợ giúp viên pháp lý, tăng cường và dần tập trung vào thực hiện công tác quản lý, vận hành, xây dựng hành lang pháp lý để làm nền tảng, động lực cho các chủ thể trong xã hội, đáp ứng những điều kiện nhất định thì sẽ được tham gia vào các hoạt động TGPL nhưng vẫn đảm bảo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong hoạt động TGPL.
Thứ hai, huy động và phát huy tối đa nguồn lực xã hội hóa chủ thể thực hiện TGPL, đặc biệt chủ thể thực hiện TGPL là luật sư. Ngoài việc đáp ứng các điều kiện về trình độ năng lực và chuyên môn thì các luật sư đã có sẵn những nền tảng về cơ sở vật chất, nguồn thu nhập và các yếu tố khác trong quá trình thực hiện nghề nghiệp chuyên môn. Mặt khác, bản thân các luật sư đã và đang thực hiện nhiệm vụ chính trị theo sự phân công của Nhà nước là có trách nhiệm tham gia các vụ án hình sự theo chỉ định của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với những vụ án bắt buộc phải có luật sư bào chữa. Các vụ việc này về bản chất cũng chính là hoạt động TGPL.
Thứ ba, cần đặt nhân tố trung tâm trong hoạt động TGPL đó chính là những đối tượng được thụ hưởng hoạt động TGPL. Đối tượng được TGPL cần được hưởng dịch vụ pháp lý tốt nhất, cần được sử dụng với chất lượng cao nhất, được đáp ứng nhu cầu thuận tiện, dễ dàng, tránh hình thức, tránh các thủ tục hành chính không cần thiết và được đối xử bình đẳng, công bằng. Chính vì vậy, chủ thể thực TGPL phải luôn đặt mình vào điều kiện của họ để trau dồi, hoàn chỉnh, nâng cao trình độ, thực hiện tối đa trách nhiệm của mình thì mới có thể tạo được niềm tin, sự tin tưởng của những đối tượng được TGPL.
Mặc dù còn một số hạn chế cần khắc phục nhưng có thể thấy, các quy định của pháp luật về chủ thể thực hiện TGPL theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã đảm bảo tính phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, sự đồng bộ, tương thích, thống nhất với hệ thống pháp luật trong nước cũng như về sự tương thích, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đồng thời, các quy định về chủ thể thực hiện TGPL đảm bảo tính khả thi, phù hợp thực tiễn của Việt Nam.
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
[1]. Xem: Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[2]. Xem: Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[3]. Xem: Điều 11 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[4]. Điểm d khoản 2 Điều 21, khoản 10 Điều 65 và điểm đ khoản 2 Điều 67 của Luật Luật sư năm 2012.
[5]. Quyết định số 93/QĐ-BTV ngày 09/10/2014 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành quy định thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của luật sư.
[6]. Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo đánh giá một số kết quả 05 năm triển khai đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025, Hà Nội.
[7]. Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định các chế độ, chính sách đối với trợ giúp viên pháp lý và thù lao, chi phí thực hiện vụ việc cho người thực hiện TGPL khác và các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL.