1. Đặt vấn đề
Các quy định pháp luật về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải đảm bảo được những yêu cầu:
- Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức trong tuyển và sử dụng lao động nước ngoài. Nhu cầu sử dụng đối tượng này là một tất yếu vì vậy các quy định về việc sử dụng lao động nước ngoài không được là rào cản.
- Tạo thuận lợi cho người lao động nước ngoài, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích những điều kiện có lợi hơn cho họ nhưng cũng không ảnh hưởng đến an ninh việc làm trong nước. Các biện pháp xử lý vi phạm cần mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn phải đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa.
- Tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong việc quản lý lao động nước ngoài. Cần bổ sung trách nhiệm và cụ thể hóa nhiệm vụ của những cơ quan chức năng, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan này, kiểm soát chặt chẽ các vi phạm.
- Phù hợp với pháp luật các nước, thông lệ quốc tế và đặc biệt, với những cam kết của Việt Nam tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam phải có những thay đổi trong quy định pháp luật để không trái với cam kết đã ký.
Việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là việc làm cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa với tốc độ nhanh chóng như hiện nay. Trên cơ sở khái quát về tình hình văn bản pháp luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, bài viết tập trung đánh giá tính hoàn thiện trong những điểm mới của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
2. Khái quát về văn bản pháp luật lao động điều chỉnh lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Người nước ngoài vào Việt Nam làm việc dưới nhiều hình thức bao gồm cả người lao động nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động. Khoản 1 Điều 169 Bộ Luật Lao động do Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2013 (sau đây viết tắt là Bộ luật Lao động năm 2012) quy định người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam là “công dân nước ngoài” (xác định bởi hai yếu tố “quốc tịch” và “tư cách công dân”) và đưa ra các điều kiện của công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam: “a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. b) Có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc; c) Không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; d) Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trừ các trường hợp theo quy định”. Bộ luật Lao động năm 2012 còn quy định chỉ được tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài đối với công việc quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu, sản xuất kinh doanh và phải giải trình nhu cầu sử dụng và được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với tất cả các trường hợp người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động thì bắt buộc phải có giấy phép lao động, phải xuất trình giấy phép lao động khi làm thủ tục liên quan đến xuất, nhập cảnh và khi có yêu cầu, không có giấy phép lao động sẽ bị trục xuất. Người sử dụng lao động chịu trách nhiệm về điều kiện giấy phép, nếu bị phát hiện sử dụng công dân nước ngoài làm việc cho mình không có giấy phép lao động sẽ bị xử lý. Luật hóa các quy định về các trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động, các trường hợp giấy phép lao động hết hiệu lực. Bỏ quy định về việc giới hạn số lượng và tỷ lệ khi tuyển dụng lao động nước ngoài. Bỏ quy định về việc gia hạn giấy phép lao động. Cùng với Bộ luật Lao động năm 2012, các đạo luật ban hành gần đây như: Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, Luật Đấu thầu năm 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015… cũng có các quy định liên quan đến người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc.
Ngày 05/9/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (sau đây viết tắt là Nghị định số 102/2013/NĐ-CP). Bộ luật Lao động năm 2012 và Nghị định số 102/2013/NĐ-CP đã kịp thời điều chỉnh quan hệ lao động với người lao động nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức tuyển dụng người lao động nước ngoài, đồng thời giúp cho công tác quản lý người lao động nước ngoài được chặt chẽ hơn. Chính phủ cũng ban hành một loạt các nghị quyết, nghị định quan trọng: Nghị quyết số 47/NQ-CP ngày 08/7/2014 Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014 trong đó quy định điều kiện đối với lao động là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam; Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm; Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 7/10/2015 sửa đổi, bổ sung Nghị định 95/2013/NĐ-CP; Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26/09/2012 quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22/9/2014 về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam; Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu...
Bộ Lao động Thương binh và xã hội ban hành Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/1/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP. Các Bộ, ngành liên quan cũng đã ra các văn bản hướng dẫn tạo thành khung pháp lý đồng bộ về vấn đề này: Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT/BCA-BNG ngày 03/01/2012 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 04/2002/TTLT/BCA-BNG ngày 29/01/2002 và Thông tư liên tịch số 05/2009/TTLT/BCA-BNG ngày 12/5/2009 trong lĩnh vực xuất nhập cảnh; Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/05/2012 về hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Thông tư 02/2012/TT-BCA ngày 05/01/2013 về việc ban hành, hướng dẫn sử dụng và quản lý các loại mẫu giấy tờ liên quan đến công tác quản lý xuất, nhập cảnh; Thông tư số 25/2013/TT-BCA ngày 12/06/2014 sửa đổi, bổ sung Điều 2 của Thông tư số 02/2012/TT-BCA; Thông tư 04/2015/TT-BCA ngày 5/1/2015 quy định mẫu giấy tờ liên quan đến việc nhập cảnh xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 31/2015/TT-BCA ngày 6/7/2015 hướng dẫn một số nội dung về cấp thị thực, cấp thẻ tạm trú, cấp giấy phép xuất nhập cảnh, giải quyết thường trú cho người nước ngoài vào Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện Nghị định số 102/2013/NĐ-CP và Thông tư số 3/2014/TT-BLĐTBXH thì thực tiễn có phát sinh một số vấn đề pháp lý: Có những quy định bất hợp lý, khó thực hiện hoặc gây vướng mắc, một số thủ tục hành chính cần phải cải cách và rút gọn hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên; ngược lại, cần bổ sung một số quy định để quản lý người lao động nước ngoài chặt chẽ hơn. Ngày 3/2/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam (sau đây viết tắt là Nghị định số 11/2016/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định số 102/2013/NĐ-CP. Nghị định số 11/2016/NĐ-CP sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4/2016 với những điểm mới quan trọng trong việc điều chỉnh người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
3. Những điểm mới cơ bản của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP
Trước hết, về các hình thức làm việc của người lao động là công dân nước ngoài khi vào Việt Nam: Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP giữ nguyên quy định về các hình thức làm việc này chỉ chỉnh sửa từ ngữ “giáo dục nghề nghiệp” (điểm c) nhằm chính xác và đồng bộ với văn bản hiện hành. Tương tự như vậy ở điểm b và h khoản 2 quy định về người sử dụng người lao động nước ngoài cũng chỉnh sửa một số từ ngữ: “Nhà thầu nước ngoài hoặc trong nước” và “Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc của nhà thầu nước ngoài được đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật”. Điểm d và đ tách riêng các nhóm chủ thể theo căn cứ quốc tịch “d) Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp”; “đ) Tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam”;
Điều 3 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP đưa ra cách giải thích về các từ ngữ “Người lao động nước ngoài là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp”; “tình nguyện viên”; “chuyên gia”; “nhà quản lý; giám đốc điều hành” và “lao động kỹ thuật” phù hợp hơn với thực tế và theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 47/NQ-CP. Khoản 1 giải thích từ ngữ “Người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp”. Khoản 2, 3, 5 giải thích từ ngữ “tình nguyện viên”, “chuyên gia”, “lao động kỹ thuật”. Bổ sung khoản 4 giải thích về từ ngữ “nhà quản lý và giám đốc điều hành”. Bổ sung, sửa đổi các tiêu chí xác định “chuyên gia” và “lao động kỹ thuật” phù hợp và chặt chẽ hơn: “Chuyên gia là người lao động nước ngoài thuộc một trong các trường hợp sau: a) Có văn bản xác nhận là chuyên gia của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại nước ngoài; b) Có bằng đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc trong chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam; trường hợp đặc biệt do thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định” (rút ngắn thời gian kinh nghiệm còn 03 năm và bổ sung các trường hợp đặc biệt); “Lao động kỹ thuật là người được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật hoặc chuyên ngành khác ít nhất 01 năm và làm việc ít nhất 03 năm trong chuyên ngành được đào tạo” (bổ sung thêm “các chuyên ngành khác”).
Việc cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động có những điểm mới như sau:
Điểm a Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP bỏ quy định “hằng năm” người sử dụng lao động phải xác định nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc, vì thực tế điều này là bất hợp lý. Việc xác định trước nhu cầu trong một năm khó đảm bảo chính xác và nhu cầu sử dụng lao động còn có thể phát sinh đột xuất. Bổ sung điểm b khoản 1 về các trường hợp không phải xác định nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài. Đây chính là các trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động, quy định mới nhằm giảm bớt thủ tục hành chính cho đối tượng này. Quy định chủ thể có thẩm quyền xem xét chấp thuận nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài là Chủ tịch UBND cấp tỉnh “nơi người lao động dự kiến làm việc”, vì nếu quy định như trước đây là Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi “người sử dụng lao động nước ngoài có trụ sở chính” thì không đảm bảo được hiệu quả quản lý (Ví dụ: Có nhiều trường hợp người lao động nước ngoài không làm việc tại trụ sở chính của người sử dụng lao động).
Trước thực tế về nhu cầu sử dụng lao động phổ thông của nhà thầu nước ngoài, nhà nước cũng bỏ quy định “cấm” sử dụng lao động nước ngoài thực hiện các công việc mà người lao động Việt Nam có khả năng thực hiện và đáp ứng yêu cầu của gói thầu đặc biệt là lao động phổ thông, lao động không qua đào tạo kỹ năng nghiệp vụ. Khoản 1 và 2 Điều 5 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP tiếp tục quy định về việc ưu tiên tuyển dụng lao động Việt Nam và chỉ cho phép sử dụng lao động nước ngoài khi không tuyển dụng được lao động Việt Nam. Bỏ quy định “việc đánh giá, lựa chọn nhà thầu phải thực hiện các quy định về sử dụng lao động đã nêu trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và các quy định của pháp luật đấu thầu Việt Nam” vì không khả thi. Tăng trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc “giám sát, yêu cầu nhà thầu thực hiện đúng nội dung đã kê khai về việc sử dụng người lao động Việt Nam và người lao động nước ngoài” (Khoản 3 Điều 5).
Bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý lao động nước ngoài:“Định kỳ hằng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài, chấp thuận nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài và tình hình quản lý người lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn.” (Khoản 1 Điều 6).
Về các trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động:
Có sửa đổi tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP về các trường hợp lao động nước ngoài khác không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Điểm d Khoản 2 mở rộng đối tượng người lao động nước ngoài sang giảng dạy không thuộc diện cấp giấy phép lao động: “d) Được cơ quan, tổ chức của nước ngoài cử sang Việt Nam giảng dạy, nghiên cứu tại trường quốc tế thuộc phạm vi quản lý của cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam hoặc được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác nhận vào giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục, đào tạo tại Việt Nam”. Bỏ giới hạn trình độ từ thạc sỹ trở lên và có thời gian giảng dạy dưới 30 ngày. Bổ sung đối tượng ở điểm (e) “Vào Việt Nam làm việc tại vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm” vì việc chuẩn bị giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động mất nhiều thời gian trong khi thời gian làm việc rất ngắn đặc biệt trong trường hợp để xử lý những sự cố, tình huống khẩn cấp. Bổ sung thêm đối tượng ở điểm h, i và k “h) Học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường, cơ sở đào tạo ở nước ngoài có thỏa thuận thực tập trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam; i) Thân nhân thành viên cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam làm việc sau khi được Bộ Ngoại giao cấp phép, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác; k) Có hộ chiếu công vụ vào làm việc cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội” vì thực tiễn đã có đối tượng này nhưng Nghị định số 102/2013/NĐ-CP chưa điều chỉnh.
Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP quy định cơ quan xem xét xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội “nơi người nước ngoài dự kiến làm việc”. Quy định này là phù hợp vì nếu theo quy định cũ là Sở lao động thương binh xã hội “nơi người lao động nước ngoài thường xuyên làm việc” là không thể xác định được nếu họ chưa vào Việt Nam làm việc. Giảm thiểu thủ tục hành chính trong quy định về những trường hợp không phải làm thủ tục xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đối với: người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ, để xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện ở Việt Nam không xử lý được; vào làm việc tại vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm. Bổ sung thời hạn xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo thời hạn của từng trường hợp quy định và không quá 02 năm. Khoản 3 Điều 8 về “Hồ sơ đề nghị xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động” về cơ bản không thay đổi chỉ yêu cầu chặt chẽ hơn về giấy tờ chứng minh người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động là “01 bản chụp kèm theo bản gốc để đối chiếu hoặc 01 bản sao có chứng thực” (điểm d).
Về điều kiện cấp giấy phép lao động, Điều 9 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP đã bỏ quy định về điều kiện hành nghề đối với người lao động nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam hoặc làm việc trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và dạy nghề vì pháp luật chuyên ngành đã quy định.
Đối với Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động. Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP quy định thời hạn Giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám sức khỏe do cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài hoặc của Việt Nam cấp có giá trị trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày ký kết luận đến ngày nộp hồ sơ. Chỉ yêu cầu người lao động nước ngoài nộp một trong hai loại giấy xác nhận là phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (Khoản 3). Quy định như vậy giúp giảm bớt thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo nhân thân của người lao động nước ngoài. Khoản 7 bổ sung “Giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế còn giá trị” đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và bỏ quy định phải nộp văn bản của Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc chấp thuận sử dụng người lao động nước ngoài. Văn bản chấp thuận sử dụng người lao động nước ngoài đã có tại cơ quan cấp giấy phép lao động, việc yêu cầu nộp lại giấy tờ này là không cần thiết và tăng thủ tục hành chính. Bổ sung khoản 8 về Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động đối với một số trường hợp đặc biệt, quy định này để giảm bớt một số giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động và người lao động có thể sử dụng lại những giấy tờ còn hiệu lực. Bổ sung Khoản 9 về hợp pháp hóa lãnh sự, chứng thực các giấy tờ.
Nghị định mới không có thay đổi về thời hạn giấy phép lao động và để tăng hiệu quả quản lý, tương tự như Khoản 2 Điều 8, trong khoản 1, 2 Điều 12 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP sửa đổi nơi đến nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội “nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc” (trước quy định là Sở lao động thương binh xã hội nơi người lao động nước ngoài có toàn bộ thời gian làm việc cho người sử dụng lao độngh oặc nơi người sử dụng lao động có trụ sở chính). Rút ngắn thời hạn xem xét cấp giấy phép của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội từ 10 ngày còn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động. Khoản 3 Điều 12 bỏ quy định “phải nộp bản sao giấy phép lao động” vì chính Sở Lao động thương binh xã hội là cơ quan cấp giấy phép lao động.
Các trường hợp cấp lại giấy phép lao động quy định đầy đủ, rõ ràng hơn: Giấy phép lao động còn thời hạn bị mất, bị hỏng hoặc thay đổi nội dung ghi trong giấy phép lao động, trừ các trường hợp cấp giấy phép đặc biệt (Khoản 1 Điều 13) ; Giấy phép lao động còn thời hạn ít nhất 05 ngày nhưng không quá 45 ngày (Khoản 2 Điều 13). Nghị định số 102/2013/NĐ-CP quy định là giấy phép hết hạn là không chặt chẽ trong việc quản lý vì từ khi giấy phép hết hạn đến khi được cấp lại giấy phép là thời gian người lao động nước ngoài làm việc bất hợp pháp tại Việt Nam và điều này có thể nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ.
Hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động được giảm thiểu và phù hợp với những sửa đổi khác trong Nghị định. Đối với yêu cầu về giấy phép lao động đã được cấp: bổ sung xác nhận của cơ quan công an cấp xã của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với giấy phép lao động bị mất và các giấy tờ chứng minh đối với trường hợp thay đổi nội dung ghi trên giấy phép lao động và đã được cấp giấy phép lao động theo Nghị định số 102/2013/NĐ-CP (Khoản 3 Điều 14).
Tăng thời hạn được đề nghị cấp lại giấy phép lao động lên từ không quá 15 ngày lên không quá 45 ngày nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài chủ động kế hoạch và thời gian nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động trước khi giấy phép lao động hết hạn, tránh những vi phạm nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ (Khoản 2 Điều 15). Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại không thay đổi so với quy định tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP: Xác định theo từng trường hợp và không quá 02 năm (Điều 16)
Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP bổ sung trường hợp thu hồi hồi giấy phép lao động do người sử dụng lao động hoặc người lao động nước ngoài không thực hiện đúng quy định tại Nghị định. Khoản 3 Điều 17 bổ sung trình tự thu hồi giấy phép lao động, tăng cường trách nhiệm của người sử dụng lao động và bổ sung trách nhiệm của Giám đốc Sở Lao động thương binh xã hội. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản xác nhận đã thu hồi giấy phép lao động gửi người sử dụng lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết thủ tục thu hồi giấy phép lao động.
Không có thay đổi trong quy định về trục xuất người lao động nước ngoài tại Điều 18.
Về trách nhiệm thi hành của các cơ quan nhà nước: Điểm b Khoản 1 Điều 20 bổ sung thêm trách nhiệm của Bộ Lao động thương binh và Xã hội nhằm tăng hiệu quả quản lý lao động nước ngoài và đảm bảo sự tương đồng về thẩm quyền hành chính cũng như tư cách ngoại giao. Trách nhiệm mới khắc phục được các bất cập không đáng có trước đây và đáp ứng kịp thời các yêu cầu thực tiễn (Ví dụ: giải quyết yêu cầu đối với các trường hợp người lao động nước ngoài làm việc cho các Bộ, ngành, cơ quan trung ương hay trong trường hợp người lao động nước ngoài làm việc ở nhiều tỉnh, thành phố). Khoản 2 Điều 20 bổ sung trách nhiệm của Bộ Công an về việc chia sẻ, cung cấp thông tin cần thiết để cùng phối hợp quản lý người lao động nước ngoài. Bổ sung trách nhiệm liên quan của Bộ Tài chính (Khoản 3). Bổ sung trách nhiệm của Bộ Công Thương hướng dẫn căn cứ, thủ tục để xác định người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới (Khoản 4).
Cuối cùng, các bên liên quan cần lưu ý các quy định hướng dẫn chuyển tiếp đối với các trường hợp đang sử dụng giấy phép còn hiệu lực và đang làm thủ tục trước ngày Nghị định có hiệu lực (Khoản 3 Điều 19)
Kết luận: Việc ban hành Nghị định số 11/2016/NĐ-CP đã góp phần khắc phục được những bất cập trong các văn bản pháp luật trong thời gian qua, phù hợp và tương đồng với hệ thống văn bản pháp luật lao động về lao động nước ngoài. Sắp tới, khi ban hành các văn bản hướng dẫn, cơ quan chức năng cần xem xét để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, đồng thời vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong điều chỉnh thị trường lao động.
Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế quốc dân