Chủ nhật 22/06/2025 22:02
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về điều kiện bảo đảm hiệu quả đối với hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt

Bài viết tập trung phân tích một số điều kiện bảo đảm hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt và đề xuất giải pháp bảo đảm hoạt động này được tiến hành có hiệu quả trên thực tế.

1. Quy định pháp luật về hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt

Trên thế giới, có nhiều quốc gia như Nga, Đức, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Hungary… quy định các biện pháp như: Ghi âm, ghi hình bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử; theo dõi, giám sát bí mật; nghe điện thoại bí mật; chặn và ghi âm các cuộc liên lạc viễn thông và internet; sử dụng trinh sát trực tiếp; sử dụng cộng tác viên bí mật; kiểm tra bí mật nơi ở, nơi làm việc… trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự. Những biện pháp này được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự của quốc gia đó hoặc được tách thành bộ luật riêng nhưng những thông tin, tài liệu thu thập được từ các biện pháp này cũng được sử dụng như những nguồn chứng cứ để chứng minh tội phạm. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng cần có những thay đổi để phù hợp với xu thế chung nhưng vẫn luôn phải bảo đảm các yêu cầu về mặt chính trị. Việt Nam tham gia nhiều công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm; trong đó, có những công ước khi tham gia, Việt Nam đã cam kết sẽ luật hóa biện pháp điều tra đặc biệt. Vì vậy, việc đưa quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) là một yêu cầu mang tính khách quan, tất yếu.

Hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt được quy định trong 06 điều luật cụ thể tại Chương XVI về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thuộc Phần thứ hai về khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là cần thiết, nhằm cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”; tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra chủ động thu thập chứng cứ, xác định đối tượng tình nghi phạm tội trong quá trình điều tra các vụ án phức tạp, có tổ chức, đặc biệt nghiêm trọng.

Hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

Thứ nhất, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 223): Thời điểm được bắt đầu áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là sau khi khởi tố vụ án. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những biện pháp này cho phép ghi nhận hình ảnh với độ phân giải cao, âm thanh chất lượng và những thông tin, tài liệu khác, đồng thời bảo đảm yếu tố bí mật với đối tượng áp dụng và những người không liên quan.

Thứ hai, các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 224): Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được áp dụng đối với các trường hợp: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là những loại tội phạm có tổ chức chặt chẽ, phương thức, thủ đoạn phạm tội và che dấu tội phạm tinh vi, xảo quyệt, đối tượng phạm tội thường ngoan cố, chống đối đến cùng, thiếu hợp tác với Cơ quan tố tụng dẫn tới các biện pháp điều tra tố tụng thông thường không mang lại hiệu quả hay hiệu quả thấp. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép Cơ quan điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ trực tiếp chứng minh tội phạm, qua đó xác định nhanh chóng, chính xác, toàn diện vụ án, chứng minh tội phạm và người phạm tội, truy nguyên tài sản mà người thực hiện phạm tội đã chiếm đoạt hoặc làm thất thoát.

Thứ ba, thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 225): Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt liên quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân nên không thể áp dụng tùy tiện, do vậy, quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp dụng, tên biện pháp được áp dụng, thời hạn, địa điểm áp dụng, cơ quan thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung khác của văn bản tố tụng.

Để bảo đảm thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Công an nhân dân, Quân đội nhân dân cần thành lập cơ quan chuyên trách tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Cơ quan chuyên trách cần được biên chế cán bộ kỹ thuật để bảo đảm về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại đã được kiểm duyệt để ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại bí mật, thu thập dữ liệu điện tử bí mật. Những người có thẩm quyền quyết định và thi hành quyết định bao gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp quân khu trở lên ra quyết định và Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, những người trong cơ quan chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật. Nếu để lộ những thông tin về việc tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tới đối tượng bị áp dụng trong vụ án sẽ khiến đối tượng cảnh giác, tìm cách đối phó, tạo ra những thông tin sai nhằm đánh lạc hướng cơ quan tố tụng.

Thứ tư, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 226): Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là khoảng thời gian tối đa mà pháp luật cho phép để tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ áp dụng ở giai đoạn điều tra và sau khi khởi tố vụ án nên trong trường hợp vụ án phức tạp đòi hỏi cần thời gian để tiếp tục thu thập tài liệu, chứng cứ thì có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra. Chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.

Thứ năm, sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 227): Thông tin, tài liệu thu thập được từ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt liên quan tới bí mật đời tư của cá nhân nên cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành quyết định phải phân tích, đánh giá, chọn lọc những thông tin, tài liệu có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội, truy tìm đồng phạm, ngăn chặn đối tượng bỏ trốn, truy nguyên tài sản người phạm tội chiếm đoạt… và sử dụng làm chứng cứ phục vụ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời; nghiêm cấm việc sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác. Mặt khác, thông tin, tài liệu thu thập được bằng việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể dùng làm chứng cứ. Đây là nguồn chứng cứ hết sức quan trọng có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm và được sử dụng để giải quyết vụ án. Để bảo đảm và phát huy vai trò kiểm sát các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt và có cơ sở đánh giá chính xác biện pháp điều tra tố tụng trong giải quyết vụ án có còn cần thiết phải áp dụng tiếp tục hay không. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo ngay kết quả việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn.

Thứ sáu, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 228): Trong trường hợp khi không cần thiết phải tiếp tục áp dụng hay có vi phạm trong việc thi hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt hoặc khi có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hủy bỏ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đối với những vụ án mà Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực thụ lý áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khi muốn hủy bỏ phải có văn bản đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu để Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hủy bỏ.

2. Các điều kiện bảo đảm hiệu quả đối với hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt

Hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt còn gặp một số vấn đề khó khăn như: Tiến độ điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng được dư luận quan tâm còn chậm; một số vụ án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được phát hiện thông qua xác minh từ nguồn đơn thư tố giác của quần chúng và qua thanh tra, kiểm tra; chất lượng hồ sơ tố tụng chưa cao, nhiều vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, đặc biệt, đã từng có vụ án trên 10 năm mà vẫn chưa xét xử được; nhiều bị can, bị cáo bị đình chỉ điều tra hoặc phải thay đổi tội danh trong quá trình truy tố xét xử… Vì vậy, để tiến hành có hiệu quả hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần bảo đảm các điều kiện như sau:

Thứ nhất, cần bảo đảm yếu tố bí mật trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt. Khi xem xét áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tại Điều 223 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại, thu thập dữ liệu điện tử) đều phải được bảo đảm bí mật. Điều này phân biệt với các biện pháp điều tra tố tụng thông thường khác quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như: Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 107); thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 196); hỏi cung bị can, trong đó quy định việc hỏi cung bị can phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh (Điều 183); nhận biết giọng nói (Điều 191). Các biện pháp điều tra thông thường và các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể có cùng một hoạt động nhưng lại khác nhau về cách thức tiến hành, đối tượng tác động, mục đích sử dụng. Đặc biệt, nếu như các biện pháp điều tra thông thường được tiến hành công khai thì các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được tiến hành bí mật.

Các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng, khủng bố, rửa tiền, tội phạm khác có tổ chức thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng. Đây đều là những loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng với phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, ảnh hưởng đặc biệt lớn đến nền an ninh quốc gia, chế độ chính trị, kinh tế của đất nước. Đa số các đối tượng phạm tội đều cấu kết hình thành băng nhóm, đường dây, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động điều tra. Xét thấy trong quá trình tiến hành điều tra làm rõ các vụ án trên, nếu chỉ sử dụng các biện pháp điều tra tố tụng công khai thì không đạt hiệu quả cao, thậm chí nhiều vụ án có thể rơi vào bế tắc, không chứng minh được hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải tiến hành các biện pháp điều tra bí mật để thu thập thông tin, tài liệu về hoạt động phạm tội của các đối tượng. Việc luật hóa các biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là một bước ngoặt lớn trong quá trình đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nêu trên. Không chỉ vậy, đây cũng là cơ sở, căn cứ pháp lý để Cơ quan điều tra bổ sung vào nguồn chứng cứ chứng minh tội phạm. Quá trình tiến hành các biện pháp điều tra đặc biệt phải được bảo đảm bí mật, không để những người không liên quan biết hoặc tham gia. Vấn đề này đã được quy định tại khoản 4 Điều 225 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Như vậy, số lượng người có liên quan đến việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được giới hạn rất ít.

Khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng nêu: “Thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác”. Quy định này thể hiện tính bí mật của các thông tin, tài liệu thu thập được từ việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt cần nghiêm túc bảo đảm yếu tố bí mật, tránh lộ lọt thông tin, tài liệu, gây ảnh hưởng đến quá trình điều tra vụ án.

Thứ hai, bảo đảm hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt được tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Mọi trình tự, thủ tục khi áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đã được quy định cụ thể tại các điều 224, 225, 226, 227, 228 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trước hết, chỉ áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với các loại tội phạm quy định tại Điều 224 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, quá trình tiến hành cần bảo đảm đúng thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt của các cơ quan và người tiến hành tố tụng có liên quan. Bên cạnh đó, cần chú ý mối quan hệ phối hợp trong việc phê chuẩn quyết định và thực hiện quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát; mối quan hệ phối hợp trong việc tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt giữa cơ quan điều tra và cơ quan chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt cũng cần tuân thủ quy định về thời hạn áp dụng, thời gian gia hạn; các trường hợp và thủ tục hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập bằng biện pháp này được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

Thứ ba, bảo đảm các điều kiện về phương tiện, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật khi tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt. Về bản chất, khi cơ quan chuyên trách tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đều phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật như: Thiết bị ghi âm, ghi hình; thiết bị, phần mềm nghe lén điện thoại; thiết bị trích xuất dữ liệu điện tử… Vì vậy, đặt ra yêu cầu cần phải trang bị các phương tiện, thiết bị để phục vụ cho hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt. Đồng thời, thiết bị để lưu trữ các thông tin, tài liệu thu thập được từ việc tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cũng cần được đầu tư, trang bị, bảo đảm lưu trữ được đầy đủ, chính xác. Việc chuẩn bị kỹ lưỡng về phương tiện, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt sẽ giúp cho hoạt động này được tiến hành khách quan, khoa học, phục vụ thu thập thông tin, tài liệu cho quá trình chứng minh tội phạm đầy đủ, chính xác.

Thứ tư, bảo đảm các điều kiện về mặt con người trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt. Yếu tố con người trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt được hiểu là những người có thẩm quyền trong hoạt động này, bao gồm: Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cùng cấp; cán bộ thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; cán bộ kỹ thuật tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Những người tham gia hoạt động tố tụng này đều phải bảo đảm đúng thẩm quyền, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trong quá trình tiến hành, cần tránh việc xảy ra sai sót, lộ lọt thông tin, tài liệu. Lưu ý, biện pháp thu thập bí mật dữ liệu điện tử đòi hỏi cơ quan chuyên trách phải cử cán bộ có trình độ chuyên môn về khoa học kỹ thuật, điện tử viễn thông để có thể thực hiện biện pháp này. Đồng thời, việc thực hiện hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt cần có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan chuyên trách thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Việc bảo đảm yếu tố con người góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình tiến hành hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt.

Thứ năm, bảo đảm thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra trong quá trình tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt ngoài việc có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự thì còn liên quan trực tiếp đến bí mật đời tư cá nhân. Vì vậy, việc bảo đảm hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt chỉ phục vụ quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự là rất cần thiết, tránh việc lợi dụng thực hiện biện pháp này vào mục đích khác. Bảo đảm thực hiện tốt hoạt động kiểm sát trong quá trình tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt góp phần giúp hoạt động này diễn ra khách quan, đúng quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát được thực hiện từ khi cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, gia hạn áp dụng, sử dụng thông tin, tài liệu, kết quả đến khi hủy bỏ áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.

TS. Nguyễn Trung Kiên

Đại học Cảnh sát nhân dân

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 392), tháng 11/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm