1. Thời cơ và vận hội
Trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa. Nền kinh tế trí thức, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, mạng internet phát triển mạnh mẽ đang làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt thế giới hiện đại, mà theo cách nói của Thomas L. Friedman là “Thế giới phẳng”. Trong bối cảnh đó, các trào lưu, khuynh hướng tư tưởng và báo chí truyền thông mới mẻ của thế giới tác động và ảnh hưởng nhanh chóng, mạnh mẽ vào từng nước; tác động trực tiếp vào tư tưởng, tình cảm, tâm lý, lối sống và đạo đức của con người. Trong đời sống quốc tế xuất hiện những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn về con đường phát triển khác nhau của các nước. Các ý kiến, quan điểm, chính kiến, tư tưởng cọ xát diễn ra hàng ngày. Đây là những điều kiện để báo chí truyền thông mỗi nước, trong đó có Việt Nam phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú, kịp thời, chính xác của công chúng. Qua giao lưu quốc tế, báo chí truyền thông ngày càng hoàn thiện, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước và sự nghiệp hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới.
Ở trong nước, Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục đổi mới theo đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Tháng 11/2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu bước hội nhập sâu, rộng và đầy đủ của Việt Nam vào đời sống quốc tế, mở ra cơ hội và cả thách thức mới cho đất nước. Trên cơ sở đó, báo chí truyền thông Việt Nam cũng tự đổi mới và phát triển, mở rộng quan hệ quốc tế, bước đầu thu nhiều thành tựu đáng kể. Tham gia vào đời sống quốc tế, các nhà báo Việt Nam có môi trường rộng hơn, thuận lợi hơn trong việc khơi dậy những tiềm năng và sáng tạo to lớn; có điều kiện và thời cơ để khai thác, xử lý và cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời, đa dạng cho công chúng; học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và tư duy, phương pháp làm báo hiện đại; sử dụng được các phương tiện kỹ thuật tiên tiến cho tác nghiệp. Công chúng Việt Nam có thêm sự lựa chọn thông tin trong và ngoài nước cho nhu cầu của mình. Báo chí truyền thông Việt Nam cũng có cơ hội mở rộng giao lưu quốc tế, vừa tự mình phát triển vừa đóng góp chung cho sự nghiệp báo chí thế giới.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để báo chí phát triển hơn. Từ khi xuất hiện truyền thông xã hội, báo chí đã thay đổi, nhanh hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên, để có chỗ đứng trong lòng độc giả thì nội dung chất lượng vẫn là yếu tố hàng đầu để có người đọc thường xuyên, trung thành. Nội dung muốn được người dân quan tâm tìm đọc là những vấn đề đời sống. Internet là cuộc cách mạng thông tin và muốn làm chủ thì báo chí không chỉ làm chủ công nghệ mà cả vấn đề nội dung. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ truyền thông, trong “cuộc đua” về thông tin, nhất là thông tin trên mạng xã hội với vô vàn tin giả, tin chưa được kiểm chứng thì báo chí truyền thống đang nắm giữ nhiều lợi thế, đặc biệt, người đọc đang hướng tìm thông tin được kiểm chứng, toàn cảnh và có sự bình bình luận sắc sảo. Do đó, cơ quan báo chí phải đi đầu và có trách nhiệm cung cấp thông tin nhanh nhạy, trung thực, chính xác[1].
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các mô hình ứng dụng khoa học - công nghệ cao, sự xuất hiện của nhiều phương tiện truyền thông hiện đại và sự đa dạng, bùng nổ về thông tin tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội. Những xu thế mới trong lĩnh vực báo chí - xuất bản, như tương tác trực tiếp, cá nhân hóa thông tin đang làm thay đổi mạnh mẽ phương thức tổ chức sản xuất thông tin. Sự phát triển vượt bậc của công nghệ lưu trữ, truyền dẫn âm thanh, hình ảnh và mô hình truyền thông đa phương tiện cho phép ra đời nhiều sản phẩm báo chí chất lượng cao, từ các bài thể loại dài, dung lượng lớn đến các bài phân tích chuyên sâu, từ các sản phẩm thực tế ảo tới những ứng dụng tin nhắn có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo (AI) để tương tác với độc giả.
Thời gian qua, báo chí Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và các loại hình báo chí. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Hội nghị báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019, cả nước có 844 cơ quan báo chí với 184 báo in, 660 tạp chí in và 24 cơ quan báo chí điện tử độc lập. Tính đến tháng 11/2018, cả nước có hơn 19.000 nhà báo được cấp thẻ nhà báo; số hội viên Hội Nhà báo Việt Nam là 23.893 người, đang sinh hoạt tại 297 đơn vị cấp hội, trong đó có 63 hội nhà báo tỉnh, 19 liên chi hội và 215 chi hội trực thuộc Trung ương hội. Các cơ quan báo chí phát triển, chất lượng thông tin báo chí ngày càng phong phú và đa chiều hơn, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng hơn. Đặc biệt, báo chí luôn là lực lượng tiên phong, cổ vũ, nhân rộng các điển hình tiên tiến, phản ánh thực tiễn sinh động. Báo chí kịp thời phát hiện, phê phán những quan điểm sai trái, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa.
2. Thách thức
Việt Nam mới bước vào hội nhập, báo chí truyền thông Việt Nam cũng vậy. Nền kinh tế thị trường dẫn đến phân hóa xã hội về thu nhập, lợi ích và phân tầng xã hội thành các nhóm khác nhau. Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích đất nước và quốc tế, bảo vệ tư tưởng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với các tư tưởng khuynh hướng mới của thế giới là không phải là điều đơn giản.
Trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, báo chí truyền thông Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn giữa báo chí trong nước và báo chí nước ngoài (mà đa phần là vượt trội về công nghệ, kỹ thuật, tài chính, tính chuyên nghiệp... cạnh tranh về sản phẩm báo chí, cơ quan quản lý và cấp độ báo chí trung ương - địa phương trong nước, có thể dẫn tới sự phân hóa - tạo ra sự không đồng đều, thậm chí một bộ phận cơ quan báo chí bị phá sản, phóng viên thất nghiệp. Báo chí truyền thông nước ngoài (chủ yếu là các nước G8) với những ưu thế về nhiều mặt sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến nhu cầu báo chí trong nước, có thể gây ra rối loạn thông tin chèn ép và áp đặt thông tin, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước và báo chí truyền thông Việt Nam[2].
Một trong những thách thức lớn đặt ra đối với lĩnh vực báo chí hiện nay, đó là sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội. Điểm nổi bật của mạng xã hội là tính kết nối và chia sẻ rất mạnh mẽ. Nó phá vỡ những ngăn cách về địa lý, ngôn ngữ, giới tính lẫn quốc gia. Những gì một người làm, một người nghĩ, cả thế giới có thể chia sẻ với người đó chỉ trong tích tắc. Về mặt bản chất, mạng xã hội chính là hình thức làm marketing truyền miệng trên môi trường internet. Việc sử dụng mạng xã hội cũng có cái tốt nhưng cũng có nhiều cái bất cập. Với đặc điểm là một công cụ kết nối tất yếu, khách quan trong thời đại công nghệ số, báo chí cần phải chủ động và tích cực sử dụng mạng xã hội, song lại phải biết quản lý và sử dụng để hạn chế tối đa các rủi ro do mạng xã hội mang lại.
Trước thách thức của mạng xã hội trong bối cảnh hiện nay, báo chí càng trở nên quan trọng trong vai trò người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa. Tuy nhiên, mức độ quan trọng của báo chí cũng tỷ lệ thuận với những thách thức, khó khăn mà báo chí đối diện khi thực hiện vai trò của mình. Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đang tích cực sử dụng truyền thông, nhất là mạng xã hội làm công cụ truyền bá quan điểm sai trái, tiến công vào nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, làm lung lạc và tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của xã hội… Vì vậy, việc phát huy vai trò của báo chí trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa càng trở nên quan trọng, cần thiết, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò các cơ quan báo chí và những người làm báo.
Sự cạnh tranh của các loại hình báo chí truyền thống với các loại hình hiện đại, như mạng xã hội, sách điện tử (ebook), sách thực tế tăng cường ảo (vrbook), các ứng dụng sách điện tử trên điện thoại thông minh... đã dẫn đến thực tế là báo in đối mặt với sự sụt giảm doanh thu, báo điện tử phải cạnh tranh với mạng xã hội, hoạt động xuất bản gặp nhiều khó khăn. Thực tế đó đòi hỏi báo chí cần đổi mới và nâng cao chất lượng, thích ứng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, tạo ra xu hướng truyền thông đa phương tiện, truyền thông hội tụ, thông tin đa dịch vụ, thông tin có tính tương tác… Sự bùng nổ thông tin làm thay đổi mạnh mẽ đời sống và các mối quan hệ xã hội, do đó các nước sẽ phải đối mặt gay gắt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng sẽ trở thành yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp tới mọi quốc gia, dân tộc và cả các cá nhân. Những bước tiến về công nghệ thông tin cho phép người dân dễ dàng tiếp cận với nhiều loại thông tin, bất cứ ai cũng có thể sản xuất và trở thành người truyền, phát thông tin, cập nhật thông tin mọi lúc, mọi nơi, không giới hạn bởi địa giới hành chính hay lãnh thổ quốc gia. Đây cũng là điều mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, dùng xảo thuật để đánh lừa và tiêm nhiễm vào độc giả những thông tin sai trái. Điều đó đặt ra vấn đề về tăng cường công tác quản lý báo chí đi đôi với nâng cao chất lượng thông tin, tuyên truyền. Báo chí kịp thời đấu tranh phản bác những nội dung thông tin bịa đặt, vu khống, gây chia sẽ nội bộ, mất đoàn kết trong Đảng và xã hội.
Trước xu hướng thông tin trên mạng ngày càng phức tạp, đan xen giữa thông tin tốt và thông tin xấu, các trang mạng xã hội mọc lên “như nấm sau mưa”, một số tờ báo chạy theo lợi ích thương mại nên xa rời nhiệm vụ chính trị. Điều đó đòi hỏi báo chí, xuất bản phải nâng cao chất lượng thông tin, tuyên truyền; nhà báo cần có phẩm chất chính trị trong sáng, ý thức trách nhiệm công dân, đạo đức nghề nghiệp. Trong cuộc cạnh tranh giữa báo chí và mạng xã hội, nhà báo vừa là người phát hiện thông tin, vừa là người kiểm chứng, thẩm định, phân tích và giải thích thông tin, cung cấp và giúp công chúng tìm được những nguồn thông tin trung thực, đáng tin cậy, góp phần xây dựng môi trường thông tin lành mạnh.
Ngoài ra, báo chí vẫn còn những hạn chế, yếu kém như: Thông tin giật gân, câu khách, sai sự thật, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân... Thông tin định hướng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái còn chậm. Tình trạng một số cá nhân lợi dụng danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí dọa dẫm, sách nhiễu, tống tiền cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để trục lợi vẫn chưa được ngăn chặn triệt để. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có sự chủ động phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, địa phương và thiếu thẩm định, kiểm chứng nguồn tin của một số cơ quan báo chí, nhà báo[3].
Bên cạnh đó, hiện nay, một số phóng viên, biên tập viên còn hạn chế về trình độ, chuyên môn, thiếu tính chuyên nghiệp trong tác nghiệp; trình độ tin học ngoại ngữ, hiểu biết thông lệ và luật pháp quốc tế còn yếu; một bộ phận lực lượng phóng viên, biên tập viên tuy được đào tạo nhưng giao lưu quốc tệ rất hạn chế… Những yếu kém đó gây khó khăn, bất cập cho quá trình hội nhập quốc tế của nhà báo nói riêng và báo chí truyền thông Việt Nam nói chung.
Cùng với những thách thức trên, quá trình hội nhập quốc tế còn đặt ra những thách thức khác như lập trường, bản lĩnh của nhà báo, giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển bền vững đất nước... là những vấn đề cần được giải quyết hài hòa và tỉnh táo, đòi hỏi mỗi nhà báo phải phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện toàn diện để đáp ứng yêu cầu mới[4].
Như vậy, trong quá trình phát triển và hội nhập có cả thời cơ và thách thức, nếu có thời cơ mà không tận dụng thì cũng bị bỏ lỡ và thách thức nếu được xử lý tốt có thể thành thời cơ. Vì vậy, báo chí truyền thông Việt Nam phải biết tận dụng thời cơ vượt qua thách thức để tiếp tục phát triển ổn định và bền vững.
3. Định hướng và giải pháp phát triển báo chí trong thời gian tới
Ngày 03/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 362/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025, trong đó xác định rõ mục tiêu, định hướng, phương án sắp xếp, lộ trình cụ thể và giải pháp phát triển báo chí ở Việt Nam đến năm 2025.
3.1. Quan điểm của Nhà nước ta về phát triển báo chí
Một là, báo chí là phương tiện thông tin, công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt, theo hướng cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đoàn kết tập hợp quần chúng, tạo đồng thuận trong xã hội, định hướng tư tưởng và thẩm mỹ, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa và con người Việt Nam.
Ba là, Nhà nước có cơ chế, chính sách tài chính, đào tạo, tạo điều kiện cần thiết cho báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền, đồng thời, khuyến khích các cơ quan báo chí tăng cường huy động nguồn lực phát triển nhưng phải bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, không chạy theo lợi nhuận thuần túy, không để tư nhân sở hữu báo chí, không để nhóm lợi ích chi phối báo chí.
Bốn là, phát triển báo chí phù hợp với xu thế phát triển khoa học công nghệ và thông tin, truyền thông thế giới. Kết hợp chặt chẽ các loại hình báo chí đồng thời phát huy lợi thế của các phương tiện, dịch vụ thông tin internet nhằm chủ động cung cấp thông tin chính thống, có định hướng, tăng diện bao phủ trong nước và quốc tế; hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng.
3.2. Mục tiêu, định hướng và phương án sắp xếp các cơ quan báo chí
- Mục tiêu và định hướng cụ thể phát triển báo chí trong thời gian tới là: (i) Sắp xếp hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý báo chí để phát triển hệ thống báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử. Xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng dư luận xã hội, thông tin đối ngoại. Sắp xếp hệ thống báo chí, khắc phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích; gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong tình hình mới; (ii) Sắp xếp hệ thống các cơ quan báo in gắn với đổi mới mô hình tổ chức, quản lý theo hướng giảm số lượng cơ quan báo in, mỗi cơ quan có thể có nhiều ấn phẩm (trong đó có 01 ấn phẩm chính và có thể có một số ấn phẩm khác). Các cơ quan báo sau khi sắp xếp đều có cơ quan chủ quản trực tiếp là cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cấp bộ, ngành trung ương (trừ các quân khu, quân chủng) tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác chỉ đạo, quản lý. Các cơ quan báo chí được giao quyền tự chủ tài chính. Nhà nước tập trung đầu tư ngân sách cho một số cơ quan báo chủ lực, thực hiện cơ chế đặt hàng đối với một số báo và tạp chí phục vụ các nhiệm vụ chính trị được xác định. Đổi mới hình thức, nội dung các ấn phẩm đáp ứng yêu cầu thông tin chung và thông tin chuyên biệt của từng nhóm độc giả, vùng miền.
- Phương án sắp xếp đối với báo và tạp chí in
+ Ban Chấp hành Trung ương có Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản. Báo Nhân dân thực hiện theo mô hình cơ quan truyền thông đa phương tiện. Đến năm 2020, mỗi ban đảng Trung ương có không quá 01 tạp chí in; khuyến khích các tạp chí có phiên bản điện tử và chuyển dần từ hình thức tạp chí in sang tạp chí điện tử. Sau năm 2020, trên cơ sở lấy Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương) làm nòng cốt, hợp nhất tạp chí các ban đảng Trung ương để xây dựng một cơ quan báo chí tập trung, đa phương tiện.
+ Văn phòng Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước mỗi cơ quan có 01 cơ quan báo in và 01 cơ quan tạp chí in.
+ Bộ, cơ quan ngang bộ có 01 cơ quan báo và 01 cơ quan tạp chí. Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ nếu tiếp nhận thêm cơ quan báo thuộc các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội trung ương, các doanh nghiệp thì được có tối đa 02 cơ quan báo nhưng chậm nhất đến năm 2025 phải hoàn thành việc sắp xếp (còn 01 cơ quan báo).
+ Học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học, bệnh viện đủ điều kiện theo quy định được có cơ quan tạp chí khoa học chuyên ngành. Các cơ quan tạp chí này thực hiện tự chủ theo quy định của pháp luật.
+ Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 01 cơ quan báo thuộc Đảng bộ cấp tỉnh, 01 cơ quan tạp chí thuộc hội văn học - nghệ thuật tỉnh. Một số tỉnh, thành phố là địa bàn trọng điểm về kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, du lịch được có cơ quan tạp chí chuyên ngành. Các cơ quan cấp sở, ngành thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không có cơ quan báo chí.
+ Mỗi tổ chức chính trị - xã hội trung ương có 01 cơ quan báo và 01 cơ quan tạp chí. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam có 01 cơ quan báo trực thuộc Liên hiệp và một số tạp chí của các hội thành viên. Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam có 01 cơ quan báo và 01 cơ quan tạp chí. Mỗi tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội trung ương có 01 cơ quan tạp chí.
+ Đến hết năm 2020, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước không còn cơ quan báo. Các tạp chí của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động theo giấy phép đã được cấp; việc cấp lại giấy phép thực hiện theo quy định của Luật Báo chí.
+ Cơ quan trung ương của các tổ chức tôn giáo hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam có 01 cơ quan tạp chí.
3.3. Giải pháp
Để thực hiện được mục tiêu, định hướng về phát triển báo chí, đồng thời đổi mới, nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của của báo chí trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau:
Một là, về thông tin, tuyên truyền: Cần quán triệt quan điểm, chỉ đạo của Đảng đối với công tác báo chí và Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí, tạo sự thống nhất cao trong triển khai thực hiện Quy hoạch; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên nâng cao khả năng tự bảo vệ trước những thông tin tiêu cực, độc hại trên mạng. Tăng cường bảo vệ an toàn thông tin, đặc biệt là thông tin bí mật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; hướng dẫn kỹ năng, thói quen khai thác, sử dụng mạng, thông tin mạng một cách an toàn, hiệu quả.
Hai là, về pháp luật, cơ chế, chính sách: Sửa đổi, hoàn thiện đồng bộ pháp luật về báo chí, viễn thông, công nghệ thông tin để phát triển đi đôi với quản lý tốt các loại hình báo chí và thông tin mạng phù hợp với xu thế phát triển thông tin, truyền thông thế giới và điều kiện nước ta; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, thông tin điện tử cho phù hợp thực tế và phục vụ tốt công tác quản lý nhà nước.
Ba là, về tổ chức bộ máy: Thực hiện sắp xếp, giảm đầu mối, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải, gắn với trách nhiệm của cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan chủ quản đối với hoạt động của cơ quan báo chí trực thuộc. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao năng lực về quản lý báo chí, thông tin điện tử của cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí các cấp; xác định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng của từng ngành, từng cấp trong quản lý, chỉ đạo báo chí, thông tin điện tử. Nâng cao vai trò người phát ngôn trong các cơ quan, tổ chức.
Bốn là, về nâng cao năng lực thực thi pháp luật: Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm của cơ quan, ấn phẩm báo chí, của cá nhân người có trách nhiệm. Xử phạt, đình bản, thu hồi giấy phép hoạt động đối với các cơ quan báo chí, ấn phẩm báo chí có sai phạm theo quy định. Rà soát, chấn chỉnh các hoạt động liên kết, xuất bản ấn phẩm của các cơ quan báo chí. Tăng cường công tác quản lý các trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội nhằm phát huy tác dụng của loại hình thông tin này trong công tác tuyên truyền, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, chú trọng công tác phối hợp, nâng cao vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam trong công tác giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động báo chí, quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
Năm là, về tài chính: Nghiên cứu cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho cơ quan báo chí giảm chi phí, tăng nguồn thu để phát triển. Phân định rõ cơ chế tài chính đối với báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền và báo chí chủ yếu phục vụ giải trí, thương mại. Nhà nước chỉ đầu tư, bảo đảm cho một số báo thực hiện nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền; có hỗ trợ ngân sách đối với những ấn phẩm, chuyên mục, chương trình phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị cụ thể trong từng giai đoạn, khu vực. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính trong hoạt động liên kết, sản xuất nội dung, chuyên mục, chương trình khoa học, phổ biến kiến thức, giải trí của các cơ quan báo chí.
Sáu là, về nguồn nhân lực: Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan báo chí về tuổi, trình độ, năng lực, kinh nghiệm quản lý. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, quản lý, kinh tế báo chí cho đối tượng lãnh đạo cơ quan báo chí. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng báo chí. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin trong các cơ quan nhà nước; tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ báo chí, nhất là kiến thức, kỹ năng xử lý thông tin và sự cố thông tin.
Bảy là, về khoa học, công nghệ: Đầu tư cho các cơ quan báo chí chủ lực gắn với yêu cầu hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ truyền thông tiên tiến và có cơ chế khuyến khích các cơ quan báo chí tiếp cận công nghệ truyền thông tiên tiến. Đầu tư nghiên cứu, phát triển các công cụ, giải pháp kỹ thuật để quản lý tốt báo chí điện tử, thông tin mạng. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, các chương trình, đề án, dự án bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng, tăng diện bao phủ thông tin chính thống, đúng định hướng đồng thời ngăn chặn, hạn chế tác động của thông tin độc hại, tiêu cực.
Tám là, về hợp tác quốc tế, thông tin đối ngoại: Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan báo chí trong nước với các cơ quan báo chí nước ngoài, các tổ chức báo chí khu vực, quốc tế. Phát huy hiệu quả cơ quan đại diện thông tấn, báo chí Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực báo chí, thông tin truyền thông. Phối hợp xử lý vi phạm trong cung cấp dịch vụ xuyên quốc gia phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế. Nâng cao hiệu quả các chương trình thông tin đối ngoại, tăng cường thông tin về Việt Nam bằng tiếng nước ngoài.
Ảnh: internet