1. Các quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp năm 2013
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và các công ước quốc tế về quyền con người đều bảo đảm sự thừa nhận, phát huy sự tôn trọng và thực thi các quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền dân sự, chính trị như một tiêu chuẩn chung cho tất cả các dân tộc và mỗi cá nhân. Quyền dân sự, chính trị là một nhóm quyền cơ bản, thiết yếu cấu thành quyền con người. Ở Việt Nam, các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 là nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc và ổn định cho việc tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Hiến pháp năm 2013 đã có những bước phát triển quan trọng nhằm tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền dân sự, chính trị. Cùng với những quyền con người, quyền công dân khác, các quyền dân sự, chính trị được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện là một trong những thành quả vĩ đại nhất của cách mạng nước ta, trực tiếp phản ánh quyền làm chủ đất nước của Nhân dân dưới chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Về phương diện lý luận, quyền con người thường được chia thành hai nhóm chính: Nhóm quyền dân sự, chính trị và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa[1]. Năm 1966, Liên Hợp quốc thông qua hai công ước nhân quyền quan trọng là: Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR). Các công ước trên cũng vận động và thúc đẩy sự hình thành, phát triển, hoàn thiện hai nhóm quyền này. Các quyền dân sự, chính trị là một bộ phận cơ bản, có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổng thể quyền con người, quyền công dân. Giữa hai nhóm quyền trên có những sự phân biệt nhất định, chẳng hạn, các quyền dân sự, chính trị đòi hỏi nghĩa vụ “thực hiện ngay” thì các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa bổ sung nghĩa vụ “thực hiện từng bước”[2].
Về khái niệm quyền dân sự, chính trị: Công ước ICCPR năm 1966 không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê một loạt các quyền tự do cơ bản của con người trên cả hai lĩnh vực dân sự, chính trị. Khái quát quy định trong công ước quốc tế, có thể hiểu một cách đơn giản, quyền dân sự, chính trị là quyền của cá nhân được tham gia một cách trực tiếp và đại diện vào công việc của Nhà nước và xã hội, là những quyền cá nhân, gắn với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác. Còn quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được hiểu là các quyền cá nhân và cả quyền cộng đồng, những quyền này liên quan đến những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa cơ bản cần thiết để mỗi cá nhân có được một cuộc sống trong nhân phẩm và tự do, bao gồm các quyền căn bản như: Quyền làm việc; quyền có mức sống thích đáng; quyền được thành lập và gia nhập công đoàn; quyền được hưởng an sinh xã hội; quyền được hưởng một tiêu chuẩn sức khỏe ở mức cao nhất có thể; quyền được học tập; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa...
Trong phạm vi quốc gia, pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền dân sự, chính trị thể hiện ở việc ghi nhận các quyền này trong Hiến pháp, pháp luật, hoàn thiện các thiết chế, bộ máy nhằm bảo đảm, bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền này. Đó cũng là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về dân sự, chính trị. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền con người”. Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn về trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm các quyền con người, cụ thể là: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Các quyền dân sự, chính trị được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 đã trở thành nền tảng pháp lý cho sự tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân về dân sự, chính trị. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc về hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (khoản 2); “việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (khoản 4).
Các quyền dân sự, chính trị được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 như sau: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (Điều 16). Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật (Điều 19). Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (khoản 1 Điều 20). Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm (khoản 3 Điều 20). Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (khoản 1 Điều 21). Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (khoản 2 Điều 21). Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (khoản 2 Điều 22). Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định (Điều 23). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật (khoản 1 Điều 24). Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định (Điều 25). Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định (Điều 27). Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 30). Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34). Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau (Điều 36). Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38). Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập (Điều 39). Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42). Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43).
2. Kết quả đạt được trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013
Hiện nay, việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị luôn trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại và trở thành những giá trị cơ bản mà mỗi Nhà nước hướng tới nhằm thu hút đông đảo công dân tham gia tích cực, sâu, rộng vào đời sống chính trị, góp phần thúc đẩy dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội.
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận, mở rộng và cụ thể hóa các quyền dân sự, chính trị tạo điều kiện để bảo vệ và thúc đẩy các quyền này một cách thực chất, hiệu quả hơn. Các quyền dân sự, chính trị được quy định ở Chương II Hiến pháp năm 2013 cho thấy vị trí, tầm quan trọng của nó, bảo đảm các quyền này được thực thi trong thực tế mà không phải là một quyền hình thức. Quy định này cho thấy, Nhà nước ta thể hiện cam kết chính trị rất rõ ràng và mạnh mẽ với việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người (thông qua việc ký kết nhiều điều ước về nhân quyền).
Các quy định về quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp năm 2013 được viết rõ ràng, ngắn gọn, cụ thể hơn rất nhiều. Từ đó, nhận thức, ý thức tôn trọng các quyền dân sự, chính trị trong những năm qua đã tăng lên đáng kể. Hoạt động giáo dục, tuyên truyền về quyền dân sự, chính trị đã và đang có sự tham gia của cả hệ thống chính trị và các đoàn thể xã hội góp phần thúc đẩy tổ chức thực hiện và giám sát thực thi, đồng thời giúp phát hiện và xử lý hành vi vi phạm các quyền dân sự, chính trị một cách kịp thời, tạo thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tế.
Từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, Việt Nam đã rất nỗ lực xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền dân sự, chính trị nói riêng. Nhiều đạo luật, nghị quyết của Quốc hội điều chỉnh trực tiếp và có liên quan đến quyền dân sự, chính trị, góp phần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, cũng như các điều ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam là thành viên đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật Hộ tịch năm 2014, Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019, Luật Cư trú năm 2020, Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, Luật Thanh tra năm 2022, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, Luật Phòng thủ dân sự năm 2023, Luật Căn cước năm 2023, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở năm 2023, Luật Giao dịch điện tử năm 2023, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023, Luật Đất đai năm 2024…
Đồng thời, để thực hiện nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, trong đó có quyền dân sự, chính trị, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó đã xác định rõ hơn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có liên quan đến bảo đảm, bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền dân sự, chính trị và hoàn thiện pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền này, như: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Công an nhân dân năm 2018, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)…
Đặc biệt, Việt Nam đã tích cực hoàn thiện pháp luật có liên quan để tạo điều kiện cho các cá nhân được thụ hưởng quyền dân sự, chính trị của mình ở mức độ cao nhất có thể; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hỗ trợ các cá nhân được tiếp cận thông tin, hiểu rõ hơn và có cơ hội thực hiện quyền dân sự, chính trị của mình, như: Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017…
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp năm 2013
Việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị của công dân ở nước ta cần được tiến hành đồng thời và đồng bộ với nhiều giải pháp khác nhau, cụ thể như:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu thể chế đường lối, chủ trương của Đảng nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn nữa các quyền dân sự, chính trị: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã xác định mục tiêu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là: “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp”; “Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân”[3]. Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện tốt các giải pháp thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, với các biện pháp cụ thể sau: Nghiên cứu, bổ sung một số quyền con người vào Hiến pháp như quyền không bị bắt làm nô lệ và nô dịch, quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật, quyền đình công. Đồng thời, nghiên cứu quy định, cụ thể hóa một số quyền công dân đã ghi nhận trong Hiến pháp như: Quyền tự do đi lại, cư trú; quyền tự do lập hội, hội họp, biểu tình; quyền có nơi ở hợp pháp; quy định về tổ chức, hoạt động quản lý hội…
Thứ hai, thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất các quy định của Hiến pháp năm 2013 về các quyền dân sự, chính trị: Thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013 về các quyền dân sự, chính trị và sự bảo đảm của Nhà nước nằm trong tổng thể việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”[4], trong đó có các quyền dân sự, chính trị. Để bảo đảm thực hiện các quyền này, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, sự chỉ đạo quyết liệt hơn nữa trong việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng, chặt chẽ, hài hòa với lợi ích quốc gia, phù hợp với pháp luật quốc tế và bối cảnh, tình hình chính trị, văn hóa của đất nước.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế tư pháp để bảo đảm quyền dân sự, chính trị: Cụ thể các quy định của Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới: “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. Việc bảo vệ quyền dân sự, chính trị phụ thuộc rất nhiều vào thủ tục tố tụng, vào sự công bằng, nghiêm minh của Tòa án. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế tư pháp để bảo vệ có hiệu quả hơn nữa quyền dân sự, chính trị của người dân.
Thứ tư, nghiên cứu chế định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền dân sự, chính trị: Điều 28 Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước và nêu rõ Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Quy định này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Vì thế, cần phải thể chế hóa, cụ thể hóa và bảo đảm các quyền này của người dân được thực hiện trong thực tế.
Thứ năm, tiếp tục nâng cao nhận thức về các quyền dân sự, chính trị: Có thể nói, việc ghi nhận quyền dân sự, chính trị của Nhân dân và sự bảo đảm, bảo vệ các quyền đó bằng Hiến pháp và pháp luật là sự thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn và không ngừng nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng các quyền dân sự, chính trị của Nhân dân; sự bảo đảm các quyền đó bằng Hiến pháp và pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước là tiền đề vô cùng quan trọng để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.
Vì vậy, trong thời gian tới, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn khác, cần sử dụng đồng bộ, linh hoạt và đa dạng các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định của Hiến pháp về quyền dân sự, chính trị. Đồng thời, kết hợp bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niềm tin và ý thức trách nhiệm đối với xã hội cho Nhân dân./.
ThS. Nguyễn Tiến Dũng
Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 25.
[2]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tlđd, tr. 25.
[3]. Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[4]. Nghị quyết số 27-NQ/TW, tlđd.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 411), tháng 8/2024)