Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thảo luận và thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 với 452 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 100% số đại biểu có mặt và 94,56% tổng số đại biểu Quốc hội). Theo đó, Quốc hội đã quyết định xem xét sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 để thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với phạm vi sửa đổi tập trung vào các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và việc phân định đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương.
Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết)[1] do Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 xây dựng gồm có 02 điều; Điều 1 gồm 08 khoản sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 2013 về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương; Điều 2 gồm 03 khoản quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 cần thiết và mang tính chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Đề cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ trương về thu gọn đầu mối, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tại Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu sắp xếp lại các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ về trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đồng bộ với cơ cấu tổ chức đảng hiện nay). Điều này đòi hỏi phải sắp xếp, tổ chức lại bộ máy tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để thích ứng với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu gần dân, sát dân, đại diện, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 9 Hiến pháp năm 2013. Khoản 1 Điều 1 dự thảo Nghị quyết (sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 9 Hiến pháp năm 2013) đã làm rõ vai trò cốt lõi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhấn mạnh vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân, tạo cơ sở pháp lý cho việc sắp xếp lại các tổ chức thành viên, giảm bớt sự trùng lặp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm thống nhất và đồng bộ với cơ cấu tổ chức đảng, phù hợp với mô hình tổ chức mới sau khi sắp xếp, tinh gọn các tổ chức chính trị - xã hội vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tuy nhiên, nhằm đề cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, mọi tổ chức thuộc hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề nghị cân nhắc chuyển cụm “là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” lên phần đầu tiên của khoản 1 Điều 9. Việc kết cấu như vậy cũng bảo đảm tính logic với khoản 2 Điều 9 khi xác định vị trí của tổ chức trước khi đề cập đến các thành phần trực thuộc tổ chức này. Theo đó, kết cấu của khoản 1 Điều 9 kiến nghị sửa lại như sau:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Lấy ý kiến Nhân dân về những vấn đề của địa phương
Điều 110 của Hiến pháp năm 2013 quy định đơn vị hành chính của nước ta gồm trên 10 loại đơn vị hành chính với tên gọi khác nhau thuộc 03 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Mô hình tổ chức chính quyền địa phương 03 cấp đã phát huy vai trò, đóng góp tích cực trong các giai đoạn xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình mới, trước yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong quản trị quốc gia và địa phương, việc tổ chức đơn vị hành chính theo 03 cấp đã bộc lộ những hạn chế, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực của đất nước, chưa phát huy được tối đa tiềm năng, lợi thế của từng đơn vị hành chính. Việc duy trì cấp chính quyền trung gian làm cho các mệnh lệnh quản lý từ chính quyền cấp tỉnh xuống tới cấp xã bị cắt khúc, triển khai chậm, không phù hợp với xu thế chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành và hội nhập quốc tế và thực hiện chủ trương sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Thực hiện Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp và kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện từ ngày 01/7/2025, do đó cần sửa đổi, bổ sung Điều 110 của Hiến pháp năm 2013 theo hướng quy định mô hình địa phương 02 cấp, đồng thời không quy định quá chi tiết về hệ thống các đơn vị hành chính với tên của từng loại đơn vị ở từng cấp như hiện nay. Việc sửa đổi, bổ sung Điều 110 Hiến pháp năm 2013 phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước, khắc phục được những tồn tại, hạn chế trên thực tiễn. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đề nghị cân nhắc bổ sung quy định việc “Lấy ý kiến nhân dân địa phương” để bảo đảm quyền làm chủ của người dân đối với những quyết định quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa, kinh tế, chính trị nơi họ sinh sống. Đồng thời, đề nghị cân nhắc bỏ từ “loại” trước cụm từ “đơn vị hành chính dưới tỉnh” tại khoản 3 Điều 110 để phù hợp, thống nhất ngữ nghĩa của cụm từ “các đơn vị hành chính” tại khoản 1 Điều 110 và Điều 111. Theo đó, kết cấu của Điều 110 được đề xuất sửa lại như sau:
“1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
3. Việc xác định các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính do Quốc hội quy định trên cơ ở lấy ý kiến Nhân dân địa phương. Hình thức lấy ý kiến theo quy định của pháp luật”.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình của Ủy ban nhân dân
Trong thực tế hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ “cấp chính quyền địa phương” để chỉ chính quyền địa phương tại những đơn vị hành chính tổ chức đồng thời cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân dễ gây nhầm lẫn với thuật ngữ “chính quyền địa phương” nói chung, bao gồm cả những địa phương hiện nay đang tổ chức mô hình chính quyền đô thị (không tổ chức Hội đồng nhân dân). Thể chế hóa kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đề nghị sửa đổi, bổ sung các điều 111, 112, 114 của Hiến pháp năm 2013 theo hướng quy định tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; không sử dụng thuật ngữ “cấp chính quyền địa phương” để thể hiện tính thống nhất về mô hình tổ chức chính quyền địa phương, tránh gây nhầm lẫn, tạo ra các cách hiểu khác nhau về tổ chức chính quyền ở địa phương; rà soát, chỉnh lý một số quy định để phù hợp với mô hình tổ chức của hệ thống chính trị sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn. Tuy nhiên, để bảo đảm tính đầy đủ, chặt chẽ và thể hiện rõ vị trí, tính chất, trách nhiệm và cơ chế giải trình của Ủy ban nhân dân, đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trước các cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính cấp trên, đề xuất phương án sửa đổi khoản 1 Điều 114, bổ sung quy định về việc Ủy ban nhân dân có trách nhiệm định kỳ báo cáo trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Theo đó, khoản 1 Điều 114 đề xuất sửa đổi như sau:
“1. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân có trách nhiệm định kỳ báo cáo trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên hoặc khi được yêu cầu”.
MT
Ảnh: internet
[1] https://danchuphapluat.vn/nghi-quyet-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-hien-phap-nuoc-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-nam-2013.