Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thiết kế, xây dựng trên cơ sở thể chế hóa quan điểm của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể các quy định của Hiến pháp năm 2013 và đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các bộ luật, đạo luật khác; đồng thời đảm bảo tính công khai, minh bạch, xây dựng mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng. Nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Như vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự, được thể hiện qua một số quy định như sau:
1. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự bằng một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự
Nhằm bảo đảm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự bằng một số nguyên tắc:
Một là, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Một trong những điểm mới quan trọng nhất của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự là bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 4. Quy định này đã mở rộng tối đa quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, điều này có nghĩa là Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Để trả lời vấn đề thắc mắc về phạm vi điều chỉnh và căn cứ áp dụng khi áp dụng trên thực tiễn, thì tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 cũng đã nêu:
- Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là “vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự” nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.
- Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định.
Như vậy, khi không có điều luật quy định, Tòa án có thể căn cứ vào các nguyên tắc do Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự quy định để áp dụng, giải quyết, cụ thể như: Áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, án lệ, lẽ công bằng, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự.
Hai là, cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung quy định về chứng cứ và chứng minh nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập chứng cứ, hậu quả của việc đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được[1]. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ khi đương sự không thể thu thập được hoặc khi xét thấy cần thiết, quy định này nhằm phù hợp với mô hình tố tụng dân sự là xét hỏi kết hợp với tranh tụng. Đồng thời, Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 còn bổ sung quy định về thủ tục trao đổi, chuyển giao chứng cứ giữa các đương sự để mọi chứng cứ đều công khai nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Để bảo đảm việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn, Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc thực hiện những biện pháp thu thập chứng cứ. Những quy định trên đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền của đương sự và những người tham gia tố tụng khác khi tham gia vụ việc dân sự.
Ba là, Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai
Đây là một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc này có ý nghĩa đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án được diễn ra đúng thời hạn, công khai và công bằng cho mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào quá trình tố tụng dân sự. Nội dung nguyên tắc được quy định tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để đảm bảo nội dung nguyên tắc này, Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 bổ sung một phần mới quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự. Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ án dân sự khi có đủ các điều kiện do luật định[2] và không áp dụng để giải quyết việc dân sự.
Bốn là, bảo đảm tranh tụng trong xét xử
Để cụ thể hóa quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại Điều 24. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. Như vậy, về thời điểm tranh tụng trong tố tụng dân sự được bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi bản án, quyết định được xét xử theo trình tự, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định Bộ luật này. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
Như vậy, nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân của các bên đương sự và người tham gia tố tụng dân sự khác, qua đó góp phần mang lại sự công bằng, bình đẳng, minh bạch hoạt động tranh tụng trong toàn bộ quá trình xét xử của Tòa án.
2. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự bằng việc quy định quyền của đương sự và của những người tham gia tố tụng khác một cách đầy đủ và chặt chẽ
Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 đã quy định đầy đủ và chặt chẽ các quyền của đương sự và của những người tham gia tố tụng khác nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự, cụ thể như: Quyền của nguyên đơn dân sự (Điều 71); quyền của bị đơn dân sự (Điều 72); quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 73); quyền thừa kế tham gia tố tụng dân sự (Điều 74); quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 76); quyền của người làm chứng (Điều 78); quyền của người giám định (Điều 80); quyền của phiên dịch (Điều 82); quyền của người đại diện (Điều 86).
Bên cạnh những quyền nêu trên để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định một số quyền đặc thù của đương sự và người tham gia tố tụng khác trong tố tụng dân sự, cụ thể:
- Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
Đây là một trong những quyền quan trọng nhất của mỗi cá nhân, công dân khi tham gia vào tố tụng dân sự. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, có ý nghĩa xuyên suốt tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng dân sự, kể từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến khi thi hành án, kết thúc vụ án. Ưu thế của thủ tục tố tụng dân sự thể hiện ở những nguyên tắc đặc trưng như quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự đảm bảo cho các bên chủ động đưa ra các biện pháp, phương thức đạt mục đích phục hồi, khôi phục một cách đầy đủ và nhanh chóng, kịp thời quyền và lợi ích của mình bị vi phạm hoặc tranh chấp[3]. Nội dung về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Như vậy, để phát sinh một vụ việc dân sự và phát động một vụ án, vụ việc dân sự thì đầu tiên đương sự thực hiện quyền khởi kiện, pháp luật tố tụng đã trao quyền quyết định này cho đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đó chính là quyền khởi kiện vụ án (Điều 186), đồng thời đương sự toàn quyền tự định đoạt trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau khi khởi kiện như có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu; có quyền thỏa thuận, hòa giải…
- Quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Đây cũng là một trong những quyền đặc biệt quan trọng của đương sự, nó gắn liền với mỗi cá nhân để tự bảo vệ mình hoặc nhờ người khác bảo vệ. Đi kèm với việc ghi nhận quyền này tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đó là cơ chế bảo đảm quyền trên thực tiễn được quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của đương sự trong việc cung cấp bản sao chứng cứ cho các đương sự khác; bỏ quy định về điều kiện “được Tòa án chấp nhận” đối với trường hợp người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động (công đoàn) trong vụ việc về lao động vì hoạt động của các chủ thể này đã được các luật chuyên ngành điều chỉnh để giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể nêu trên tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ việc dân sự.
- Quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng dân sự
Trong pháp luật tố tụng dân sự, ghi nhận và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật được coi là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Quyền kháng cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự
Quyền kháng cáo trong tố tụng dân sự là quyền dân sự bảo đảm chế độ xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án. Quyền kháng cáo quy định tại Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực chất quyền kháng cáo chính là quyền yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại và đưa ra xét xử lại vụ án theo yêu cầu của người kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, vì người kháng cáo cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc chưa thỏa mãn với phán quyết của Tòa án sơ thẩm. Bên cạnh đó, tại Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định về quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự.
3. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự bằng việc quy định thẩm quyền và trình tự, thủ tục tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định về thẩm quyền của Tòa án theo hướng tất cả những tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ trường hợp theo quy định của luật thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác[4]. Quy định này, một mặt thể chế hóa yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về việc người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn, mặt khác là điều kiện để Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng bổ sung quy định đầy đủ, cụ thể những loại tranh chấp và việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án bảo đảm phù hợp với luật nội dung đã quy định, như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Luật Thi hành án dân sự…
Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định mới nhằm tạo cơ chế đảm bảo bằng trình tự, thủ tục tố tụng, cụ thể:
Một là, quy định về thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm
Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm được quy định từ Điều 186 đến Điều 269 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, gồm một số nội dung mới:
- Quy định thủ tục khởi kiện, xác định ngày khởi kiện trên cơ sở pháp điển hóa những văn bản hướng dẫn Bộ luật Tố tụng dân sự trước nhằm quy định rõ ràng, cụ thể về thủ tục khởi kiện tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt quyền khởi kiện của mình; bổ sung căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi cần đợi kết quả của cơ quan có thẩm quyền…
- Quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Đây là phương thức để bảo đảm các đương sự được quyền biết và tiếp cận tất cả các tài liệu, chứng cứ; trao đổi chứng cứ, bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có), xác định những chứng cứ đã giao nộp; đề nghị triệu tập người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác của vụ án trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử giúp cho đương sự có đủ điều kiện chuẩn bị việc tranh tụng tại phiên tòa.
- Quy định về căn cứ, thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa trong nhiều trường hợp. Quy định này để đảm bảo việc xem xét chứng cứ chính xác, toàn diện, bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự tại phiên tòa và phù hợp với thực tiễn.
- Quy định về thủ tục xét xử trong trường hợp vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng (Điều 238), theo đó quy định thủ tục xét xử của Tòa án trong trường hợp đương sự vắng mặt hoặc đương sự đề nghị xét xử vắng mặt thì Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
Hai là, quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm
Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm được quy định từ Điều 270 đến Điều 315 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, gồm một số nội dung mới:
- Quy định thủ tục kháng cáo, kháng nghị, thụ lý, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị trên cơ sở kế thừa các quy định của luật trước, đồng thời bổ sung quy định cụ thể về thời hạn kháng cáo, ngày kháng cáo, về hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị, việc gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị sau khi xét xử sơ thẩm để phù hợp hơn với thực tiễn xét xử.
- Quy định mới về việc đương sự được quyền cung cấp bổ sung những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng; những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm; sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự phiên tòa phúc thẩm nhằm bảo đảm tranh tụng trong xét xử phúc thẩm, trong đó có quy định về trách nhiệm trình bày của đương sự đối với những nội dung có kháng cáo, kháng nghị; việc hỏi và trả lời tại phiên tòa phúc thẩm; nội dung, phương thức tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm...
Ba là, quy định về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được quy định từ Điều 325 đến Điều 360 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, gồm một số nội dung mới:
- Quy định rõ hơn căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Bổ sung điều luật mới (Điều 330) quy định đương sự được quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu những tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp. Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có thể tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
- Bổ sung quy định về thủ tục tại phiên tòa giám đốc thẩm, đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến, tranh luận về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu.
- Bổ sung quy định Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, tránh việc phải xét xử sơ thẩm, phúc thẩm lại trong những trường hợp không cần thiết.
Bốn là, quy định về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tham gia vào phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự
Bên cạnh Tòa án, Viện kiểm sát cũng là một chủ thể quan trọng có vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng. Theo Điều 46 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, còn người tiến hành tố tụng trong hệ thống Viện kiểm sát bao gồm viện trưởng, kiểm sát viên, kiểm tra viên. Để thực hiện chức năng hiến định kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Qua hoạt động này cho thấy, Viện kiểm sát đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng của Tòa án, hướng đến việc bảo vệ và bảo đảm quyền của đương sự và người tham gia tố tụng khác trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Đặc biệt, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng[5]. Mặt khác, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới về việc phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm và phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 262 và điểm g khoản 1 Điều 369 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quy định này đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án được diễn ra khách quan, công bằng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp trong quá trình tố tụng dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hết sức cần thiết, một mặt đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, mặt khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng (đặc biệt là đương sự).
Hiến pháp năm 2013 đã hiến định nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân thuộc về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng[6]. Do vậy, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng thời, thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, với nhiều quy định mới đã tạo nên hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự. Từ đó, tạo tiền đề để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Đại học Kiểm sát Hà Nội
[1]. Xem Điều 6 Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015.
[2]. Xem Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn.
[3]. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Học viện Khoa học xã hội (2011), Quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, tr. 232.
[4]. Xem Chương III - Thẩm quyền của Tòa án, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[5]. Xem khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[6]. Theo khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…” và khoản 3 Điều 107: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…”.