Thứ tư 02/07/2025 14:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bảo vệ quyền tác giả trong thương mại điện tử - Thực trạng và giải pháp

Sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 với trụ cột là internet kết nối vạn vật đã tạo nên diện mạo và cách thức vận hành mới của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là nền kinh tế số với (thương mại điện tử) TMĐT là xu thế tất yếu. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện cơ chế, hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả (QTG) nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể liên quan, hạn chế các tranh chấp cũng như thiết lập một hệ thống bảo hộ QTG trên nền tảng TMĐT hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật đã bộc lộ một số điểm thiếu sót, chưa thống nhất trong các quy định hiện hành dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá, kết luận về hành vi xâm phạm và xử lý vi phạm. Trong khi đó, theo đánh giá của các cơ quan chức năng, TMĐT tại Việt Nam đang có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng trung bình trong những năm qua là từ 25% - 30%/năm[1]. Song hành với tốc độ phát triển của TMĐT, tình trạng xâm phạm QTG trên nền tảng TMĐT ở nước ta đang có xu hướng mở rộng về phạm vi, gia tăng về số lượng và nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng các quy định về bảo vệ QTG trong TMĐT tại Việt Nam là cần thiết để từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ QTG trên nền tảng TMĐT.

1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả trong thương mại điện tử tại Việt Nam

Cơ sở pháp lý cho sự phát triển của TMĐT đã được hoàn thiện đáng kể, đáng chú ý là việc ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về TMĐT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương) và Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng. Đặc biệt, các nội dung liên quan đến xác định phạm vi bảo hộ và bảo vệ QTG nói chung và bảo vệ QTG trong TMĐT nói riêng đã được quy định khá chi tiết trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ); Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội xâm phạm QTG, quyền liên quan và các văn bản dưới luật như: Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về QTG, quyền liên quan (Nghị định số 22/2018/NĐ-CP); Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về QTG, quyền liên quan, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 của Chính phủ (Nghị định số 131/2013/NĐ-CP); Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ QTG và quyền liên quan trên môi trường mạng internet và mạng viễn thông (Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL).

Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có quy định nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến hành vi khai thác tác phẩm mới trong TMĐT, cụ thể, khoản 2 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định, quyền sao chép tác phẩm là quyền của chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử. Bên cạnh đó, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng được hiểu là quyền của chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn (khoản 4 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP).

Đồng thời, các khoản 10, 12, 13, 14 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT bao gồm: (i) Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu QTG; (ii) Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm của mình; (iii) Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm; (iv) Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm của mình.

Tuy nhiên, các quy định hiện hành chưa có sự phân biệt giữa các bản sao điện tử cố định và các bản sao tạm thời trong quá trình truyền đưa, trình duyệt nội dung cũng như chưa có án lệ và hướng dẫn liên quan tới hành vi xem trực tuyến hay liên kết website TMĐT. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa giới hạn trách nhiệm đối với việc vô hiệu hóa và tạo điều kiện cho việc vô hiệu hóa DRM (Digital Rights Management - Quản lý bản quyền nội dung số) như một dạng trách nhiệm đối với hành vi tạo điều kiện cho việc xâm phạm các độc quyền của chủ sở hữu QTG. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có quy định về ngoại lệ đối với việc vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo thực thi các hành vi sử dụng hợp lý được phép theo quy định của luật và chưa có quy định về ngoại lệ đối với hành vi cung cấp các thiết bị có khả năng can thiệp vào DRM nhưng có mục đích hợp pháp là chủ yếu.

Hơn nữa, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã có nhiều thay đổi tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi QTG trong môi trường TMĐT như đưa ra nguyên tắc xác định mức xử phạt hành chính đối với xâm phạm QTG dựa trên hành vi xâm phạm chứ không phải là giá trị hàng hóa bị xâm phạm QTG; quy định cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi xâm phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc sửa lại đúng tên tác giả, tên tác phẩm; buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm xâm phạm QTG dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số (Điều 3). Đặc biệt, Điều 20 Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định mức phạt đối với hành vi xâm phạm quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ QTG dưới ba dạng (xóa bỏ thông tin quản lý quyền, vô hiệu hóa biện pháp kỹ thuật và cung cấp thiết bị hoặc tạo điều kiện cho việc can thiệp và vô hiệu hóa DRM) với hai biện pháp khắc phục hậu quả là buộc tái xuất và buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Tuy nhiên, Nghị định này chưa đề cập tới khả năng miễn trách nhiệm đối với các hành vi vô hiệu hóa.

Liên quan đến cơ chế trách nhiệm giới hạn đối với xâm phạm QTG của các ISP (Internet Service Provider - Nhà cung cấp dịch vụ internet), Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã có cách tiếp cận theo chiều ngang - điều chỉnh trách nhiệm của các trung gian trực tuyến trên mọi lĩnh vực như xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, thông tin mang nội dung xấu... Mặt khác, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã sử dụng cách phân loại và quy định điều kiện miễn trách nhiệm theo các chức năng chính: Truyền đưa thông tin số (Điều 16), lưu trữ tạm thời thông tin số (Điều 17), cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số (Điều 18) và công cụ tìm kiếm thông tin số (Điều 19). Theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các ISP cũng không phải chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát thông tin, điều tra các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình truyền đưa hoặc lưu trữ thông tin số của tổ chức, cá nhân khác, hay cung cấp thông tin về khách hàng, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu (Điều 20). Tuy nhiên, cho dù có quy định về cơ chế thông báo và dỡ bỏ liên quan đến điều kiện miễn trách nhiệm của các ISP cho thuê chỗ lưu trữ và các công cụ tìm kiếm thông tin, thì theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các ISP này chỉ phải dỡ bỏ các nội dung xâm phạm QTG trong trường hợp tự mình phát hiện hoặc bị bắt buộc theo lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đề cập tới việc các ISP sẽ dỡ bỏ thông tin khi tự mình phát hiện, quy định này chủ yếu dựa vào sự hợp tác của ISP nhưng không có ràng buộc cho sự hợp tác này, thiếu quy định về hiểu biết thực tế và suy đoán đối với ISP. Ngoài ra, việc không có quy định nào làm căn cứ để chủ sở hữu QTG có thể gửi thông báo khuyến cáo ISP về hành vi xâm phạm QTG và thủ tục pháp lý để ISP dỡ bỏ các nội dung xâm phạm sau khi nhận được thông báo đó đã làm hạn chế đáng kể việc thực thi quyền của các chủ thể QTG tại Việt Nam.

Với nỗ lực đưa ra một quy định “theo chiều dọc” điều chỉnh trách nhiệm của các ISP liên quan đến QTG, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL. Khi xét tới các đối tượng áp dụng là các ISP, Thông tư liên tịch này đã có một bước tiến khi đề cập đến các ISP kiểu mới như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và các doanh nghiệp viễn thông. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL về cơ bản chỉ quy định trách nhiệm của ISP (Điều 5) và quy định này không có gì mới so với Luật Công nghệ thông tin và Luật Sở hữu trí tuệ. Thông tư liên tịch này đã không quy định trách nhiệm đối với từng loại ISP theo chức năng hay hoạt động mà ISP thực hiện trong khi cơ chế trách nhiệm đối với các ISP thực hiện các chức năng riêng biệt chắc chắn là không giống nhau do vai trò của chúng trong việc phổ biến nội dung của bên thứ ba là khác nhau. Chính việc không phân loại này đã dẫn đến một số điều khoản của Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL không có khả năng áp dụng, ví dụ như trách nhiệm “lưu trữ nội dung thông tin số trong hệ thống cung cấp dịch vụ của mình chỉ mang tính chất trung chuyển, tạm thời, tự động, có thời hạn, đủ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của việc truyền tải nội dung” quy định tại khoản 1 Điều 5 chắc chắn không thể áp dụng với ISP lưu trữ thông tin số; tương tự, trách nhiệm dỡ bỏ và xóa nội dung thông tin số khi nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền theo khoản 3 Điều 5 cũng không áp dụng cho các doanh nghiệp truyền đưa đơn thuần hay cung cấp dịch vụ truy cập internet.

2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả trên nền tảng thương mại điện tử

Việc nâng cao hiệu quả bảo hộ QTG trong TMĐT là yêu cầu rất khó khăn, là thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các cơ quan thực thi. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ tất yếu Việt Nam phải thực hiện trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Các giải pháp được nêu sau đây góp phần giải quyết những khó khăn, thách thức đó.

Thứ nhất, cần sớm ban hành một văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo hộ quyền tác giả trong thương mại điện tử

Hiện nay, các quy định về bảo vệ QTG trong TMĐT được quy định chung trong Luật Sở hữu trí tuệ và nhiều văn bản chuyên ngành khác như Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và các văn bản về TMĐT. Điều này dẫn đến thực trạng khó tra cứu và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, đặc biệt là những quy định mang tính đặc thù về bảo vệ QTG trong TMĐT. Do đó, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, Việt Nam cần ban hành các quy định riêng, thống nhất về bảo hộ QTG trong TMĐT, không chỉ là vấn đề hình thức và kỹ thuật mà còn thể hiện được tính đặc thù, tính khác biệt trong việc bảo hộ QTG giữa môi trường truyền thống và trong TMĐT. Điều này là phù hợp với xu hướng chung của thế giới về lĩnh vực này.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định mang tính đặc thù về bảo hộ quyền tác giả trong thương mại điện tử của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản liên quan khác

- Bổ sung quy định về quyền sao chép tạm thời, có sự phân biệt giữa các bản sao điện tử cố định và các bản sao tạm thời trong quá trình truyền đưa, trình duyệt nội dung. Về phương diện công nghệ, trong môi trường kỹ thuật số, mọi đối tượng của QTG đều có thể định hình bằng tệp dữ liệu sao cho dựa vào đó đối tượng có thể được nhận biết, sao chép, truyền đạt đến công chúng. Việc truyền dữ liệu trong môi trường kỹ thuật số hiện nay được thực hiện bởi công nghệ “nối chuyền gói”, sử dụng bộ giao thức internet TCP/IP. Hệ quả của việc sử dụng công nghệ trên là bản sao tạm thời của dữ liệu luôn phải được tạo ra tại bộ nhớ của máy tính (RAM) ở nút trung gian trên mạng hoặc bộ nhớ động của thiết bị thực hiện chức năng tương tự như vậy trong quy trình truyền dữ liệu[2].

Vấn đề đặt ra là, bản sao tạm thời trong môi trường kỹ thuật số có được xem là đối tượng được bảo hộ QTG hay không? Học tập kinh nghiệm của một số quốc gia, để xác định bản sao tạm thời nào là đối tượng được bảo hộ QTG, pháp luật Việt Nam nên quy định căn cứ vào thời gian tồn tại của dữ liệu trong RAM. Nếu thời gian tồn tại trong RAM quá ngắn, bản sao chỉ được xem là mang tính chuyển tiếp và khi tắt nguồn máy tính, bản sao tạm thời đó sẽ mất đi hoàn toàn thì sẽ không phải là đối tượng được bảo hộ QTG, đồng nghĩa với việc các chủ thể tạo ra bản sao tạm thời trong tình huống này không xâm phạm QTG.

- Bổ sung các biện pháp chế tài mang tính đặc thù để áp dụng đối với hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT, cụ thể, việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại và biện pháp xử phạt đối với các hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT cần thể hiện tính đặc thù so với môi trường truyền thống bởi sự khó khăn trong việc thu thập chứng cứ cũng như thiệt hại do hành vi xâm phạm trong TMĐT mang lại thiệt hại nghiêm trọng hơn cho chủ thể quyền. Ngoài ra, cơ sở để đánh giá mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh đối với lĩnh vực QTG trong TMĐT cũng đặc biệt khó khăn vì việc sử dụng tác phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tâm lý của công chúng, khả năng thẩm thấu nghệ thuật… Do vậy, cách thức xác định thiệt hại cũng như cách tính mức độ bồi thường thiệt hại cũng phải thể hiện rõ sự khác biệt sao cho tương ứng với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà chủ thể quyền có thể bị mất do hành vi xâm phạm QTG mang lại. Tương tự, biện pháp xử phạt phải cụ thể đối với từng hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT và đủ mạnh không chỉ nhằm để trừng trị mà còn có tính chất răn đe các chủ thể thực hiện các hành vi này.

- Bổ sung quy định giới hạn trách nhiệm đối với việc vô hiệu hóa và tạo điều kiện cho việc vô hiệu hóa các DRM như một dạng trách nhiệm đối với hành vi tạo điều kiện cho việc xâm phạm các độc quyền của chủ sở hữu QTG. Ngoài ra, cần bổ sung quy định về ngoại lệ đối với việc vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo thực thi các hành vi sử dụng hợp lý được phép theo quy định của luật và quy định về ngoại lệ đối với hành vi cung cấp các thiết bị có khả năng can thiệp vào các DRM nhưng có mục đích hợp pháp là chủ yếu.

- Bổ sung quy định xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ internet trong trường hợp đối tượng của QTG bị xâm phạm trong TMĐT. Pháp luật cần xác định rõ nhà cung cấp dịch vụ internet có vai trò quan trọng trong việc phát tán các đối tượng xâm phạm QTG trong TMĐT. Tùy mức độ và tính chất của vụ việc, các nhà cung cấp phải chịu trách nhiệm (dân sự, hành chính và có thể cả hình sự) trước các cơ quan nhà nước, trước chủ thể quyền để ngăn chặn các hành vi lưu trữ và truyền đưa các đối tượng đã được bảo hộ QTG trong TMĐT mà chưa được phép của chủ thể quyền. Ngoài ra, pháp luật cần có quy định là cơ sở để chủ sở hữu QTG có thể gửi thông báo khuyến cáo ISP về hành vi xâm phạm QTG và thủ tục pháp lý để ISP dỡ bỏ các nội dung xâm phạm sau khi nhận được thông báo đó để đảm bảo việc thực thi quyền của các chủ thể QTG tại Việt Nam.

- Sửa đổi Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL theo hướng quy định trách nhiệm đối với từng loại ISP theo chức năng hay hoạt động mà ISP thực hiện thay vì quy định theo chiều dọc như hiện nay.

Thứ ba, nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả trong thương mại điện tử của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt hành vi xâm phạm cần được tiến hành thường xuyên, triển khai đồng bộ trong phạm vi cả nước để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm QTG trong môi trường TMĐT. Do đó, Nhà nước cần có chế độ tuyển chọn, đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ thực thi QTG trong TMĐT; đồng thời, cần thường xuyên tổ chức tập huấn cho các cán bộ về xây dựng quy trình, cách thức đạt tiêu chuẩn để các cán bộ thống nhất thực hiện.

Thứ tư, nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của người sử dụng tác phẩm

Để nâng cao ý thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng các tác phẩm, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật về QTG, đặc biệt là việc sử dụng các tác phẩm trong TMĐT với các biện pháp như tổ chức các cuộc tọa đàm, diễn đàn, hội thi, hội nghị, hội thảo... Bên cạnh đó, nội dung giáo dục về QTG cần đưa vào trong chương trình đại học, cao đẳng để nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên. Ngoài ra, cần tiến hành phổ biến pháp luật về QTG một cách dễ hiểu nhất trên các sách, báo, tạp chí... đặc biệt là việc sử dụng mạng internet, môi trường kỹ thuật số để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về QTG, công khai lên các phương tiện thông tin những thiệt hại do vi phạm gây ra để người sử dụng nhận thấy tầm quan trọng trong việc bảo vệ QTG. Các hiệp hội, tổ chức bảo vệ QTG cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, báo cáo tình hình hoạt động, công khai minh bạch công tác quản lý để củng cố uy tín trong xã hội, tạo niềm tin cho các hội viên và định hướng được nhận thức của người dân trong vấn đề QTG.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả trong thương mại điện tử

TMĐT có tính chất toàn cầu, vì vậy, QTG trong môi trường internet là một đối tượng có phạm vi sử dụng, khai thác vượt qua khỏi sự kiểm soát của một quốc gia, do đó, cần có một mối quan hệ hợp tác quốc tế chặt chẽ. Cụ thể:

- Cần tăng cường tham gia ký kết và thực thi nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế về bảo hộ QTG. Thông qua đó, Việt Nam có thể tranh thủ sự hỗ trợ, hợp tác của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, các tổ chức quốc tế liên quan, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia nhằm tiếp thu những kinh nghiệm về lập pháp, quản lý và thực thi QTG đối với tác phẩm nghệ thuật trong TMĐT.

- Tiếp tục tăng cường việc đào tạo đội ngũ SHTT tại nước ngoài, nhất là chuyên gia về QTG gắn với TMĐT ở các nước phát triển về khoa học công nghệ như Hoa Kỳ, Nhật Bản - những quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến bảo hộ QTG trong TMĐT.

- Tạo các điều kiện thuận lợi để các cá nhân, tổ chức trong nước hợp tác với các quốc gia và tổ chức nước ngoài về SHTT, trong đó có QTG trong TMĐT, ví dụ như triển khai các dự án hợp tác quốc tế liên quan đến việc tăng cường bảo hộ SHTT tại Việt Nam.

ThS. Phạm Minh Huyền

Đại học Luật Hà Nội



[1]. Hồng Hạnh, Cam kết “Nói không với hàng giả trong thương mại điện tử”, đăng tại https://moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cam-ket-noi-khong-voi-hang-gia-trong-thuong-mai-%C4%91ien-tu—15112-1001.html, đăng ngày 18/4/2019.

[2]. Đỗ Khắc Chiến (2014), “Về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet”, Tham luận tại Hội thảo Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam, tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm