Thứ tư 25/06/2025 09:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung, trong đó, “nới lỏng” các quy định nhập quốc tịch Việt Nam, không quy định “cứng” phải có tên bằng tiếng Việt, quy định những người chỉ được có một quốc tịch Việt Nam…

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam “nới lỏng” các quy định nhập quốc tịch Việt Nam

Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Quốc tịch) quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải đáp ứng nhiều điều kiện chặt chẽ tại Điều 19, theo đó, công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện: (i) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam; (iii) Biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam; (iv) Đã thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; (v) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có các điều kiện quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, nếu thuộc một trong những trường hợp: (i) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam; (ii) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; (iii) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Người nhập quốc tịch Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều 19 (là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép.

Chính phủ quy định cụ thể các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam (đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 02/2/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam).

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung quy định này tại Điều 19 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao. Theo đó, người có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xin nhập quốc tịch Việt Nam được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19 (biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam; đang thường trú ở Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam). Đồng thời, các trường hợp này được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp có người thân thích là công dân Việt Nam (việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và được Chủ tịch nước cho phép. Các trường hợp này được nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nếu cư trú ở nước ngoài.

Ngoài ra, bên cạnh việc kế thừa các quy định tại Nghị định 16/2020/NĐ-CP, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” nêu trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia để phù hợp tình hình mới tại nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.

Để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 Luật Quốc tịch theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định. Quy định này nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam. Quy định này cũng bảo đảm phù hợp với các quy định có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã có quy định giao các bộ, ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Quy định 04 nhóm là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 5 Luật Quốc tịch theo hướng quy định nguyên tắc “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” đối với 04 nhóm và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật khác có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này. Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau:

“5. Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, chỉ định giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, địa phương; người làm việc trong tổ chức cơ yếu; người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam.

6. Công chức, viên chức không thuộc quy định tại khoản 5 Điều này phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.

7. Trường hợp luật khác ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì áp dụng quy định của Luật này; trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện quy định này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó”.

Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã bổ sung quy định tại khoản 8 Điều 5 Luật Quốc tịch: “Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện”.

Thực tiễn giải quyết hồ sơ trong thời gian qua, có một số trường hợp mặc dù đã được cơ quan tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn bổ sung hoàn thiện nhưng tại thời điểm Bộ Tư pháp kiểm tra lại hồ sơ vẫn không đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định hoặc người xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam không bổ sung được giấy chứng nhận đã thôi quốc tịch nước ngoài; một số trường hợp Bộ Tư pháp nhận được văn bản của các cơ quan có liên quan đề nghị chưa giải quyết hoặc không giải quyết vì lý do an ninh.

Việc bổ sung quy định tại khoản 8 Điều 5 Luật Quốc tịch để bảo đảm không khiếu nại, khiếu kiện khi cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ra quyết định từ chối giải quyết hồ sơ quốc tịch trong các trường hợp nêu trên, thể hiện rõ quyền chủ quyền quốc gia ngay tại thời điểm cơ quan của Chính phủ xem xét hồ sơ trước khi trình Chủ tịch nước. Những kiến nghị, đề nghị liên quan đến giải quyết các việc về quốc tịch vẫn được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định.

Người xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài

Khoản 4 Điều 19 Luật Quốc tịch quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.

Khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch quy định người xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây, tên gọi này phải được ghi rõ trong Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam chỉnh lý quy định tại khoản 4 Điều 19 và khoản 4 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng người xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho họ khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch. Theo đó, người xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây. Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên gọi này phải được ghi rõ trong quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.

Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.

Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số theo lộ trình

Để đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ số, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 và bổ sung khoản 7 vào sau khoản 6 Điều 39. Theo đó, đàm phán, ký điều ước quốc tế hoặc trình Chủ tịch nước quyết định việc đàm phán, ký điều ước quốc tế về quốc tịch theo quy định của Luật này và Luật Điều ước quốc tế. Đồng thời quy định, căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu và khả năng thực hiện trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định về việc thực hiện giải quyết hồ sơ quốc tịch trên môi trường điện tử.

Thủ tục giải quyết các việc quốc tịch (đặc biệt là thủ tục xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam) không chỉ là thủ tục hành chính thông thường mà còn là vấn đề thuộc quyền chủ quyền quốc gia, quy trình giải quyết có thể bao gồm cả thông tin mật, tối mật. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật của Quốc tịch Việt Nam quy định việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số cần có lộ trình, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến trình tự, thủ tục (khoản 1 Điều 20, khoản 2 và khoản 3 Điều 21, khoản 1 Điều 24, khoản 4 Điều 25, khoản 5 Điều 29, Điều 41); sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam theo hướng: Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện xác nhận có quốc tịch Việt Nam thay vì xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam và giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục xác nhận có quốc tịch Việt Nam. Việc cấp Hộ chiếu Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ số vào một số bước trong quy trình giải quyết hồ sơ quốc tịch trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật này và quá trình xây dựng nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam.

Vinh Nguyễn

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Kỹ năng thẩm định và lấy ý kiến trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Kỹ năng thẩm định và lấy ý kiến trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Đây là một trong những nội dung tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho người làm công tác pháp chế, xây dựng pháp luật về kiến thức và kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tại Hội nghị về phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền (chiều ngày 24/6/2025).
Tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật trong bối cảnh mới

Tăng cường năng lực đội ngũ làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật trong bối cảnh mới

Sáng ngày 24/6/2025, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú chủ trì Hội nghị về phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Đổi mới Chương trình Giáo dục mầm non nhằm bảo đảm chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ

Đổi mới Chương trình Giáo dục mầm non nhằm bảo đảm chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ

Ngày 18/6/2025, đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội đồng thẩm định Hồ sơ Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới Chương trình Giáo dục mầm non (dự thảo Nghị quyết).
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh:  Các bộ, ngành, địa phương tích cực thực hiện hiệu quả việc phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh: Các bộ, ngành, địa phương tích cực thực hiện hiệu quả việc phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp

Theo Chương trình Hội nghị toàn quốc tập huấn về tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị ở cấp xã (mới). Chiều ngày 14/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã báo cáo chuyên đề Nội dung cơ bản về thực hiện phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền về lĩnh vực tư pháp khi thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp”. Nhân dịp này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng về một số thông tin và nội dung liên quan đến việc xây dựng và kế hoạch triển khai các nghị định về phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền nói chung và nghị định về phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp nói riêng.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Tháo gỡ "nút thắt" về thể chế mở đường cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Tháo gỡ "nút thắt" về thể chế mở đường cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Ngày 12/6/2025, đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội thảo đối thoại với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và hiệp hội, doanh nghiệp, cơ quan đơn vị liên quan về các quy định pháp luật có vướng mắc, bất cập và kiến nghị xử lý nhằm tháo gỡ “nút thắt” thể chế cho nền kinh tế, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính và đồng chí Nguyễn Thị Thu Hòe, Phó Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính đồng chủ trì Hội thảo.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sản phẩm báo chí trên không gian mạng

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sản phẩm báo chí trên không gian mạng

Đây là chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Luật Báo chí (sửa đổi) ngày 09/6/2025. Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lê Hải Bình đồng chủ trì phiên họp.
Quyền và nghĩa vụ của phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo

Quyền và nghĩa vụ của phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo

Đây là quy định mới trong dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi)[1] do Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch chủ trì soạn thảo.
[1] Dự thảo ngày 30/5/2025 gửi Bộ Tư pháp thẩm định.
Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị

Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị

Ngày 09/6/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo về Đề án “Nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Mai Lương Khôi chủ trì Hội thảo. Đồng chí Lê Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp đồng chủ trì Hội thảo.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Tập trung thiết kế Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách pháp luật với mô hình tổ chức phù hợp

Tập trung thiết kế Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách pháp luật với mô hình tổ chức phù hợp

Đây là một trong những chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú tại buổi làm việc với các đơn vị về báo cáo triển khai Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật ngày 29/5/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm