1. Về cơ chế thực hiện quyền lực chính trị
Từ thực tiễn thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta, có thể thấy, ở mức độ tổng quát, cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Cơ chế này đã được Đảng ta nêu ra từ Đại hội IV (1976). Thực chất cơ chế này là xác định vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Đảng lãnh đạo: Trước hết là đưa ra đường lối đúng đắn, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn, làm định hướng và quy tụ sức mạnh của toàn dân tạo nên sức mạnh của quyền lực nhân dân. Đồng thời, Đảng còn đào tạo, rèn luyện một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để tập hợp và tổ chức nhân dân thực hiện được quyền lực chính trị của mình thông qua cơ quan đại diện của mình là Nhà nước.
- Nhà nước quản lý: Trước tiên là thể chế hóa các mục tiêu chính trị đã được xác định thành pháp luật, tức là thành ý chí của toàn dân mang tính pháp lý. Đồng thời, bằng hệ thống các cơ quan hành pháp, tư pháp, Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước - quyền lực do nhân dân ủy quyền thông qua bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Nhân dân làm chủ: Khẳng định vị thế chủ thể quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời cũng xác định nhân dân chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh của quyền lực. Như vậy, trong cơ chế này, nhân dân là chủ thể quyền lực; Nhà nước là công cụ chủ yếu thực hiện quyền lực của nhân dân; Đảng là người lãnh đạo đảm bảo Nhà nước là “của dân, do dân, vì dân”.
2. Các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động
Thứ nhất, để nhân dân lao động có quyền lực chính trị phải có cơ sở kinh tế thích ứng đảm bảo - đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Không có cơ sở kinh tế đó, không thể nói tới quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Lê nin nói: “Pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định”[2]. Do đó, phải kiên trì tiến hành nhiệm vụ “quan trọng nhất và khó khăn nhất” là công cuộc xây dựng kinh tế. Vấn đề là trong điều kiện nước ta, đó chính là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước - hay mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội IX, X, XI, XII của Đảng đã khái quát.
Thứ hai, phải xây dựng Đảng cầm quyền thực sự là chính đảng của giai cấp công nhân, thực sự đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động. Đảng phải tập trung, hội tụ được những tinh hoa trí tuệ, phẩm chất của giai cấp, của dân tộc, xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu lãnh đạo nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình. Đây là một điều kiện có ý nghĩa cốt lõi đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Tuy nhiên, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, đổi mới không ngừng để nâng cao uy tín của Đảng đối với nhân dân, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - Nhân dân, khẳng định vị thế và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân.
Thứ ba, cần xây dựng được Nhà nước thật sự “của dân, do dân, vì dân”. Đó là Nhà nước của chính những người lao động, do chính những người lao động cử ra và hoạt động của Nhà nước đó nhằm đảm bảo lợi ích của những người lao động, phục vụ lợi ích của đa số người lao động. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đồng thời “quy định nhiệm vụ cho tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”[3]. Đội ngũ cán bộ, công chức phải thực sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, xứng đáng là những “công bộc” của dân, có đủ năng lực hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, có phẩm chất trong sạch, không tham ô, tham nhũng, không quan liêu, hách dịch, sách nhiễu nhân dân.
Thứ tư, nhân dân lao động chỉ có quyền lực thực sự khi bản thân những người lao động phải có nhận thức đúng đắn, phải có ý thức và năng lực thực hiện quyền lực của mình nghĩa là phải có “vốn liếng chính trị”. Do vậy, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa chính trị của quảng đại quần chúng.
Thứ năm, đẩy mạnh và mở rộng dân chủ hóa đời sống xã hội, nhằm tạo lập được môi trường xã hội thuận lợi, tạo sự “đồng thuận” và “niềm tin” trong xã hội để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Một môi trường dân chủ thực sự là người dân làm chủ trên thực tế mọi mặt của đời sống xã hội. Trong quá trình mở rộng dân chủ, dân chủ hóa đời sống xã hội, cần kiên quyết đấu tranh chống lại các khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản, dân chủ hình thức. Dân chủ phải gắn với kỷ cương và trên cơ sở luật pháp.
3. Bầu cử và quyền con người theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
Trong lịch sử lập hiến của nhân loại, tư duy về chính trị và vấn đề quyền con người, quyền công dân luôn là nội dung cốt lõi của lịch sử lập hiến. Các quốc gia đều coi quyền con người, quyền công dân là nội dung cơ bản, trụ cột không thể thiếu của Hiến pháp. Trong đó ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người là sứ mệnh “thiêng liêng” của Hiến pháp, là mục tiêu, nhiệm vụ của Hiến pháp của mỗi quốc gia. Hiến pháp là “văn bản ủy quyền” của nhân dân cho Nhà nước, trao cho Nhà nước hệ thống quyền lực thực chất của nhân dân, ấn định việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực và các nguyên tắc và phương pháp thực thi quyền lực nhà nước cũng như ghi nhận và xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực thi các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Theo nghĩa đó, một bản Hiến pháp bất luận được thông qua bằng cách thức nào, cũng là cơ sở pháp lý để thiết lập nên Nhà nước, bộ máy nhà nước chứ không phải ngược lại: Nhà nước thiết lập nên Hiến pháp. Càng ngày, vấn đề chính quyền và vấn đề nhân quyền càng gắn bó mật thiết với nhau, tạo nên chế độ chính trị của mối quốc gia hiện đại. Không thể nói rằng, chế độ dân chủ mà lại không bảo đảm nhân quyền, quyền con người, cũng như không có Hiến pháp[4]. Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Những quy định trên cho thấy, quyền con người cần phải được ghi nhận, đảm bảo thực hiện trên những nền tảng của chế độ dân chủ và chủ quyền nhân dân. Thiếu vắng dân chủ và chủ quyền nhân dân thì những ghi nhận về quyền con người, quyền bầu cử khó có thể đi vào hiện thực, phát huy giá trị của dân chủ và giá trị xã hội của pháp luật bầu cử trong thực tiễn.
Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân có vai trò quyết định trong việc hình thành nên cơ quan đại diện: Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân - sản phẩm của bầu cử, là hình ảnh thu nhỏ của cơ cấu xã hội của đất nước và trong phạm vi từng địa phương “thành phần cơ cấu của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phản ánh tính mặt trận dân tộc thống nhất như Quốc hội mà nền tảng là liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Sự thảo luận tại nghị trường và quyết định tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân là hình ảnh “thu nhỏ” của việc chia sẻ và cùng nhau tìm ra những điểm tương đồng của lực lượng, các nhóm xã hội. Khi Quốc hội, Hội đồng nhân dân - cơ quan đại diện của nhân dân quyết định một vấn đề nào đó, điều đó có nghĩa là thay mặt cả nhân dân để quyết định. Do vậy, có thể nói rằng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân - cơ quan đại diện là “bức tranh phản ánh hình ảnh Nhân dân cả nước và ở địa phương”. Những quyết định của cơ quan đại diện là “sự đồng thuận trong đa dạng”, phản ánh ý chí chung của nhân dân.
Bên cạnh đó, pháp luật về bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích sự tham gia của nhân dân, của xã hội vào hoạt động bầu cử. Sự tham gia chính trị, sự quan tâm của cử tri đối với việc bầu cử phản ánh bầu không khí chính trị của đất nước, địa phương qua mỗi kỳ bầu cử, thông qua bầu cử, có thể thấy được trách nhiệm, ý thức chính trị của người dân đối với Nhà nước, đây là yếu tố rất quan trọng, mang tính gốc rễ cho sự thành công hay thất bại của một cuộc bầu cử và cả hệ thống chính trị - xã hội. Bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân được coi là cơ chế tham gia dân chủ có tính hiện thực của Nhà nước ta. Pháp luật về bầu cử còn là công cụ quan trọng để giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước. Việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đã được quy định ở các điều khoản của Hiến pháp. Mới đây, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 35 và Nghị quyết số 85 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, đây là bước tiến quan trọng về pháp luật bầu cử đại biểu dân cử ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng pháp luật bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân là vấn đề chưa được nghiên cứu, làm rõ cụ thể :
Một là, việc tuyển chọn ứng cử viên là công đoạn rất quan trọng trong một cuộc bầu cử, bởi lẽ đây là giai đoạn “sơ tuyển” trước khi nhân dân trực tiếp lựa chọn. Từ năm 1980 đến nay, pháp luật bầu cử nước ta quy định hiệp thương là thủ tục bắt buộc. Theo Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, “Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, tham gia giám sát việc bầu cử đại Quốc hội, Hội đồng nhân dân (Điều 6)”. Từ năm 1980 đến nay, hiệp thương chính là hình thức tuyển chọn ứng cử viên trong chế độ bầu cử nước ta. Trừ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946, nhìn chung, số lượng ứng cử viên tự ứng cử không đáng kể; những cuộc bầu cử gần đây, số lượng có tăng lên, nhưng tỉ lệ tự ứng cử trúng cử rất thấp[5]. Như vậy, có thể nói rằng “không gian” cho những người tự ứng cử trong pháp luật bầu cử ở nước ta còn khá chật hẹp.
Hai là, quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu được các Luật bầu cử quy định tổ chức qua ba Hội nghị hiệp thương, nhưng trong các cuộc bầu cử, Mặt trận Tổ quốc thường hướng dẫn quy trình hiệp thương theo năm bước. Các bước hiệp thương vô hình chung làm hạn chế quyền tự do ứng cử, làm giảm ý nghĩa quyền bầu cử trực tiếp của công dân. Quá trình lựa chọn, hiệp thương giới thiệu đại biểu, còn gò ép, nhiều nơi Mặt trận Tổ quốc rất lúng túng, sai sót, bỏ qua quy trình[6]. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mặt bằng dân trí chưa cao, việc Mặt trận Tổ quốc được giao trọng trách chủ trì công tác hiệp thương để tuyển chọn các ứng cử viên nhằm mục đích đảm bảo tính cân đối về cơ cấu đại biểu trong các giai tầng, các ngành, các giới. Do vậy, rất cần cải tiến mạnh mẽ quy trình hiệp thương giới thiệu ứng viên trong thời gian tới.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực bằng pháp luật bầu cử chưa được thực sự chặt chẽ, bắt đầu từ khâu “đầu vào”; nghĩa là, pháp luật bầu cử vẫn còn “khoảng trống” trong việc thẩm định, kiểm tra, đánh giá tư cách ứng cử viên trước khi họ tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Đặc biệt là việc kê khai tài sản, lý lịch tư pháp của ứng cử viên, cơ chế kiểm soát cam kết chính trị của ứng cử viên và đại biểu khi tham gia ứng cử. Đồng thời, quy định về việc “từ chức” của Nghị viên theo quy định của Điều 41, Điều 61 Hiến pháp năm 1946 cũng chưa được kế thừa, nghiên cứu thể chế hóa trong các bản Hiến pháp và Luật bầu cử hiện nay.
4. Một số giải pháp nâng cao nhận thức chính trị, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền con người và kiểm soát quyền lực nhà nước bằng pháp luật bầu cử
Báo cáo chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra...”[7]. Trong đó cần quan tâm đến các nội dung, giải pháp cơ bản là:
Thứ nhất, vấn đề trao quyền cho cơ quan đại diện của mình (ủy quyền) bằng cách nào? và quyền lực cần được kiểm soát như thế nào? Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Đó không phải là khẩu hiệu, mà phải được thấm sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Người dân phải ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng hành động thực tế. Bảo đảm việc lập hiến là của toàn dân “thông qua cử tri toàn quốc”, nhân dân phải trực tiếp quyết định những vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Phải trưng cầu dân ý đối với những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thứ hai, kiểm soát bằng chính quyền lực nhà nước: Quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực nhà nước, phương pháp tiếp cận của nước ta lâu nay đối với vấn đề này chưa phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, trên thực tế, việc lạm dụng quyền lực khá phổ biến. Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực rất cần nghiên cứu một cách thật nghiêm túc; đặc biệt là sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp; nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 2013, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 và hiến định quy định về việc “từ chức” của đại biểu theo tinh thần quy định của Điều 41, Điều 61 Hiến pháp năm 1946.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ: Bao gồm hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn nhiệm cán bộ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của Nhân dân; tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia làm chủ đất nước. Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình; có quyền phản đối những việc làm mà nhân dân cho là sai trái; có quyền yêu cầu cán bộ từ chức hoặc bị cách chức… Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời, giải trình.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế vận động bầu cử: Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh những mặt làm được, nhìn chung trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng được nhân tài. Cách làm công tác cán bộ chủ yếu là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của người lãnh đạo. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề và những năm gần đây lại cộng với mặt trái của cơ chế thị trường và sự tha hóa quyền lực. Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản công tác cán bộ theo hướng thật sự tôn trọng ứng cử tự do và đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội; người vận động bầu cử phải có chương trình, kế hoạch hành động rõ ràng, đó là “cam kết chính trị” trước cử tri và nhân dân và định kỳ báo cáo trước cử tri và nhân dân về kết quả thực hiện. Đó cũng là cách để nhân dân và đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ. Lựa chọn những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân chính và xứng đáng của nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Thứ năm, thực hành dân chủ trong bầu cử cần chú trọng: (i) Phải khắc phục tình trạng dân chủ hình thức; (ii) Vừa phải mở rộng dân chủ, vừa phải giữ vững kỷ luật, kỷ cương; (iii) Phải khắc phục triệt để bệnh quan liêu, cửa quyền, hống hách, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, lợi ích nhóm… nhằm củng cố lòng tin của nhân dân; (iv) Hoàn thiện pháp luật bầu cử theo hướng người dân phải thật sự dân chủ, tự do, công bằng trong bầu cử, thực sự tham gia vào việc quản lý nhà nước; (v) Củng cố “niềm tin” và “sự đồng thuận xã hội” thông qua bầu cử dân chủ là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hành dân chủ ở Việt Nam. Xu hướng xã hội càng phát triển, thì nhu cầu dân chủ ngày càng lớn, dân chủ trực tiếp sẽ là xu thế tất yếu trong xã hội hiện đại. Dân chủ, bình đẳng, chống độc quyền trong việc tiếp nhận thông tin là một trong những cách tốt nhất để tạo sự đồng thuận xã hội và phòng ngừa tiêu cực trong bầu cử.
Ban Dân vận Trung ương
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 283.
[2]. V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcova, 1976, tập 33, tr. 223.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 9, tr. 591.
[4]. Nguyễn Như Phát - Nguyễn Đăng Dung: Quyền con người theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, NXB Lao động xã hội, Hà nội, 2014, tr. 172.
[5]. Ví dụ: Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, số người tự ứng cử và trúng cử thấp. Cấp tỉnh 02 người= 0,05%. Cấp huyện không có. Cấp xã: 43 người= 0,01%). Trong cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 số người tự ứng cử đạt tỷ lệ: Đại biểu Quốc hội: Đại biểu tự ứng cử: 2 người= 0,4%. Cấp tỉnh: Tự ứng cử đạt = 8,72%. Cấp huyện: Tự ứng cử = 0,2%. Cấp xã: Tự ứng cử = 0,10%).
[6]. PGS. TSKH. Phan Xuân Sơn: Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr 228- 229.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 169, 170.