Thứ tư 02/07/2025 18:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo pháp luật Việt Nam

Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn là các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bài viết này phân tích những tồn tại, hạn chế và đề xuất hướng hoàn thiện quy định về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.

Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn là các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bài viết này phân tích những tồn tại, hạn chế và đề xuất hướng hoàn thiện quy định về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.

1. Thực trạng quy định các biện pháp giám sát, giáo dục tại xã, phường, thị trấn

Mục 2 Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (Bộ luật Hình sự) quy định các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) bao gồm: Khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Các biện pháp giám sát, giáo dục là các biện pháp mới được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành, các Bộ luật Hình sự trước đó không quy định các biện pháp này. Việc Bộ luật Hình sự quy định các biện pháp giám sát, giáo dục nhằm buộc người dưới 18 tuổi phạm tội thực hiện những nghĩa vụ nhất định khi được miễn TNHS, chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền, qua đó góp phần phòng ngừa họ tiếp tục phạm tội.

Theo Điều 92 Bộ luật Hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi thỏa mãn đồng thời 02 điều kiện: (i) Đã ra quyết định miễn TNHS và (ii) Người dưới 18 tuổi hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục. Đối với từng biện pháp cụ thể, ngoài thỏa mãn 02 điều kiện nói trên, còn phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại các Điều 93, 94, 95 Bộ luật Hình sự và tuân thủ trình tự, thủ tục quy định tại các Điều 426, 427, 428, 429 của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành. Trong các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS, khiển trách và hòa giải tại cộng đồng là các biện pháp mới được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Đối với giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp này đã được quy định trong các Bộ luật Hình sự trước đây. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội[1], không phải là biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn TNHS.

2. Một số tồn tại, hạn chế trong các quy định hiện hành

Nghiên cứu quy định của Điều 95 Bộ luật Hình sự và Điều 429 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thấy rằng, trong các quy định về vấn đề này vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Cụ thể:

Thứ nhất, về trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp được miễn TNHS ngoài thỏa mãn điều kiện chung quy định tại Điều 92, còn phải thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật Hình sự, đó là: “Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91; hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự”.

Qua nghiên cứu cho thấy, trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn quy định tại khoản 1 Điều 95 giống trường hợp áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng quy định tại khoản 1 Điều 94, chỉ khác nhau là biện pháp hòa giải tại cộng đồng “được áp dụng”, còn biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn “có thể áp dụng”[2] khi thuộc một trong hai trường hợp nêu trên. Vấn đề đặt ra, khi thuộc trường hợp áp dụng thì cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng hay giáo dục tại xã, phường, thị trấn?

Tác giả cho rằng, về nguyên tắc, phải áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng, vì đây là trường hợp “được áp dụng”. Hơn nữa, qua so sánh cho thấy, thời gian chấp hành và các nghĩa vụ phải thực hiện khi áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng nhẹ hơn biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Do vậy, để bảo đảm nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cần ưu tiên áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng. Vậy nếu ưu tiên áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng, thì trường hợp nào sẽ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, vì đây là biện pháp “có thể áp dụng”. Việc khoản 1 Điều 95 Bộ luật Hình sự quy định “có thể áp dụng” dẫn đến tình trạng áp dụng tùy nghi, không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi chưa có văn bản hướng dẫn.

Thứ hai, về Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục: Khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: “Người được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây…”. Như vậy, tùy từng giai đoạn tố tụng, cơ quan ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn sẽ phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện. Vấn đề đặt ra là Ủy ban nhân dân cấp xã nào sẽ được giao trách nhiệm giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì Bộ luật Hình sự không quy định? Đó là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị áp dụng cư trú, tạm trú; nơi người bị hại cư trú hay nơi xảy ra tội phạm? Việc xác định chính xác Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giáo dục sẽ bảo đảm cho biện pháp được thực hiện, cũng như đánh giá thái độ chấp hành của người dưới 18 tuổi để xét thời gian chấm dứt trước thời hạn biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn có liên quan đến biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thấy rằng, Nghị định số 37/2018/NĐ-CP[3] và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH[4] cũng không xác định Ủy ban nhân dân cấp xã nào sẽ giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Hạn chế này không chỉ có ở biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, mà còn có trong quy định của Bộ luật Hình sự về biện pháp khiển trách và biện pháp hòa giải tại cộng đồng.

Thứ ba, về nghĩa vụ phải thực hiện: Khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự quy định các nghĩa vụ người dưới 18 tuổi phải thực hiện khi áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, bao gồm: Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép; các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 Bộ luật Hình sự.

Vấn đề đặt ra là nếu người dưới 18 tuổi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ quy định thì xử lý thế nào, hậu quả pháp lý ra sao? Trước khi bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người dưới 18 tuổi phạm tội đã được miễn TNHS, do vậy, dù có thực hiện hay không thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 95 thì họ cũng không bị coi là có án tích. Hơn nữa, Điều 95 cũng không quy định hậu quả pháp lý bất lợi mà người bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Cùng với đó, Nghị định số 37/2018/NĐ-CP chỉ quy định người bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn nếu vi phạm thì theo đề nghị của người trực tiếp giám sát, giáo dục, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu người được giám sát, giáo dục trình diện[5] mà không quy định hình thức xử lý nào khác. Việc Bộ luật Hình sự và Nghị định số 37/2018/NĐ-CP không quy định hình thức xử lý khi vi phạm nghĩa vụ đã làm giảm tính hiệu quả của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, chưa bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Thứ tư, về người có thẩm quyền quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Khoản 1 Điều 429 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định các chủ thể khác nhau có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Theo đó, trong giai đoạn điều tra, thẩm quyền thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra; trong giai đoạn truy tố, thẩm quyền thuộc về Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; trong giai đoạn xét xử, thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử.

Đối với giai đoạn điều tra và truy tố, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn không phát sinh vướng mắc. Tuy nhiên, đối với giai đoạn xét xử, khoản 1 Điều 429 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử, không quy định Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Thực trạng này dẫn đến trường hợp trong khâu chuẩn bị xét xử, khi Hội đồng xét xử chưa được thành lập thì Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa không có quyền quyết định áp dụng giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Trong khi đó, Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là 30 ngày (đối với tội phạm ít nghiêm trọng), 45 ngày (đối với tội phạm nghiêm trọng) hoặc 02 tháng (đối với tội phạm rất nghiêm trọng) chưa kể gia hạn. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã kéo dài thời gian giải quyết, không tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi sớm được hưởng chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự.

3. Một vài kiến nghị

Từ những tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như đã phân tích, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau đây:

Một là, liên ngành Tư pháp trung ương hoặc Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sớm hướng dẫn quy định “có thể áp dụng” trong khoản 1 Điều 95 Bộ luật Hình sự. Việc hướng dẫn quy định nêu trên nhằm áp dụng pháp luật thống nhất, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án xác định chính xác trường hợp nào áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, trường hợp nào áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng.

Hai là, sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự theo hướng quy định Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi phạm tội cư trú là cơ quan được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Việc quy định Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 18 tuổi phạm tội cư trú là cơ quan có trách nhiệm giám sát, giáo dục sẽ phù hợp với quy định tại điểm g khoản 2 và khoản 3 Điều 429 Bộ luật Tố tụng hình sự, cũng như tạo điều kiện cho việc quản lý, giáo dục.

Ba là, Chính phủ cần nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 37/2018/NĐ-CP theo hướng bổ sung hình thức xử lý đối với người dưới 18 tuổi vi phạm các nghĩa vụ phải thực hiện khi thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Bốn là, sửa đổi khoản 1 Điều 429 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng bổ sung Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Khi đó, khoản 1 Điều 429 được sửa đổi thành: “1. Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội mà xét thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Bộ luật hình sự thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong vụ án do cơ quan mình thụ lý, giải quyết”.

Nguyễn Văn Tùng & Nguyễn Văn Nhất
Học viện Cảnh sát nhân dân




[1]. Xem: Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

[2]. Xem: khoản 1 Điều 94 và khoản 1 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3]. Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.

[4]. Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.

[5]. Xem: Điều 18 Nghị định số 37/2018/NĐ-CP.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm