Hoạt động xét xử, với đặc trưng riêng có của mình, luôn gắn liền với sự tham gia của công chúng. Mức độ tham gia và cách thức tham gia của công chúng như thế nào còn phụ thuộc vào pháp luật mỗi nước. Ở nhiều nước trên thế giới theo hệ thống thông luật Anh - Mỹ, sự tham gia của công chúng được xây dựng thành chế định “bồi thẩm đoàn”. Ở Việt Nam, vấn đề này thể hiện ở chế định “hội thẩm”.
1. Vai trò của việc công chúng tham gia xét xử
Đối với hoạt động xét xử, sự tham gia của công chúng có vai trò sau đây:
Thứ nhất, góp phần bảo đảm tính đồng thuận cho phán quyết của Tòa án
Trong thủ tục tố tụng ở nhiều nước theo hệ thống pháp luật thông luật, chẳng hạn như ở Mỹ, một nguyên tắc cao nhất đối với các hoạt động tố tụng ở Mỹ đó là: “Không được tước đoạt tự do, tính mạng, tài sản của công dân mà không tuân theo những trình tự nhất định”. Trình tự đó chính là các quy định về thủ tục tố tụng và cơ bản được thực hiện bởi hệ thống Toà án. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Chỉ có Toà án mới có quyền tước đoạt các quyền của công dân. Những quy định rất quan trọng và điển hình thể hiện vai trò của tố tụng ở Mỹ như: Khi kết tội phải có mặt của bồi thẩm đoàn. Việc xét xử có bồi thẩm đoàn là bắt buộc đối với các vụ án hình sự.
“Ở cấp độ liên bang tất cả những người bị cáo buộc phạm tội đều được bảo đảm theo Tu chính án Hiến pháp thứ năm rằng vụ án của họ sẽ được một đại Bồi thẩm đoàn xem xét. Tuy nhiên, Tòa án tối cao từ chối làm cho quyền lợi này ràng buộc tất cả các bang. Ngày nay, chỉ khoảng một nửa số bang sử dụng đại bồi thẩm đoàn; ở một số bang trong những bang này đại bồi thẩm đoàn chỉ được dùng cho những loại vụ án đặc biệt. Những bang không sử dụng đại Bồi thẩm đoàn sẽ áp dụng một phiên tòa sơ bộ hoặc một phiên thẩm vấn. (Một số bang sử dụng cả hai thủ tục này). Bất cứ phương pháp nào được sử dụng, mục đích cơ bản của khâu này trong thủ tục tố tụng hình sự là để xác định liệu có nguyên nhân hợp lý nào để đưa bị cáo ra phiên tòa chính thức không”[1].
Bồi Thẩm đoàn bao gồm: Đại bồi thẩm đoàn thông thường gồm 23 thành viên (tham gia giải quyết các vụ án đặc biệt nghiêm trọng có hình phạt tử hình) và tiểu bồi thẩm đoàn gồm 12 thành viên (tham gia giải quyết các vụ án không có hình phạt tử hình). Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Khi có đủ 23/23 (đại bồi thẩm đoàn) 12/12 (tiểu bồi thẩm đoàn) bồi thẩm viên nhất trí có tội thì vấn đề hình phạt sẽ được đặt ra và do thẩm phán thực hiện bước tiếp theo. Việc lựa chọn bồi thẩm đoàn hết sức ngẫu nhiên (thông qua danh sách cử tri, danh sách những người được cấp giấy phép lái xe... hoặc có sự kết hợp ngẫu nhiên trong các danh sách).
Chế độ xét xử có bồi thẩm đoàn cũng như vai trò của bồi thẩm ở Mỹ hoàn toàn khác với chế độ hội thẩm ở Việt Nam cũng như chế độ giúp đỡ thẩm phán ở Đức. Có thể hiểu, bồi thẩm đoàn ở Mỹ không phải là thành viên của Hội đồng xét xử mà nó là một cơ quan tiến hành tố tụng độc lập với thẩm phán. Bồi thẩm đoàn xem xét, cân nhắc và đưa ra quyết định đối với vụ án, trên cơ sở quyết định của bồi thẩm đoàn mà thẩm phán đưa ra phán quyết cuối cùng.
Ở Việt Nam, hội thẩm nhân dân là thành viên trong hội đồng xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: Một thẩm phán và hai hội thẩm (2/3). Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm (3/5). Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm[2].
Quy định trên cho thấy cả hội thẩm và thẩm phán là những thành tố hợp thành Hội đồng xét xử. Trong Hội đồng xét xử với hai hội thẩm, một thẩm phán thì thẩm phán giữ vai trò chủ tọa phiên tòa. Phiên tòa ba hội thẩm, hai thẩm phán thì một trong hai thẩm phán sẽ chủ tọa phiên tòa.
Về mặt lý thuyết, sự tham gia của công chúng vào thủ tục tố tụng, đóng vai trò quan trọng để đo lường tính đồng thuận của công chúng đối với phán quyết của Tòa án. Như vậy, xét ở khía cạnh là tính đồng thuận, số lượng công chúng càng nhiều, thì vai trò này càng thể hiện tốt hơn. Như trên đã nói, ở Mỹ, người ta sử dụng 12 bồi thẩm đoàn không phải là sự ngẫu nhiên, mà đều xuất phát từ dụng ý nhất định.
Khi bảo đảm được tính đồng thuận, sẽ phần nào tránh được oan sai trong quá trình xét xử. Điều này cũng đồng thời cho thấy nó sẽ góp phần trong việc bảo vệ công lý.
Thứ hai, sự tham gia của công chúng góp phần bảo đảm tính chính đáng cho phán quyết
Một phán quyết bảo đảm tính chính đáng nghĩa là trong hoàn cảnh cụ thể nhất định, một người bình thường vẫn có thể đủ sức hiểu được hành vi của bị cáo là có tội. Việc lập luận và chứng minh một người thực sự đã phạm tội, phải dựa trên những lập luận giản dị nhất mà một người bình thường đủ năng lực trí tuệ để hiểu nó. Có như thế, ít nhất mới cho chúng ta đủ cơ sở để suy đoán rằng, bị cáo cũng đã hiểu được điều đó nhưng vẫn thực hiện hành vi nên đáng phải trừng phạt. Hoặc chí ít, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải hiểu những lý lẽ đó. Từ đây có thể thấy, các bên tranh tụng phải có áp lực tích cực nhất định trong việc sử dụng lý lẽ đối với công chúng để thuyết phục công chúng theo quan điểm của mình. Đặc biệt, đối với bên buộc tội, lý lẽ đưa ra phải thuyết phục theo nghĩa được công chúng hiểu và chấp nhận, chứ không phải theo nghĩa được một chuyên gia, một người am hiểu pháp luật hiểu và chấp nhận. Từ đó cho thấy, việc tham gia của công chúng vào hoạt động xét xử nói chung, trong đó hoạt động xét xử hình sự nói riêng, sẽ đóng vai trò gia tăng tính chính đáng của phán quyết của Tòa án.
Thứ ba, việc tham gia xét xử của công chúng trong xét xử đặt ra trách nhiệm cao hơn, nghiêm túc hơn trong tranh luận và chứng minh, bảo đảm tính khách quan
Tranh luận, về mặt bản chất là nhằm làm rõ các tình tiết để bảo vệ công lý, lẽ phải. Nhưng quan trọng hơn, tranh luận nó là phương tiện để bảo đảm tính ngẫu nhiên của kết quả tranh luận, làm cho phán xét thể hiện tính khách quan tối đa. Tranh luận có thể không phải là phương tiện để đạt được sự thật nhưng tranh luận chắc chắn loại bỏ những yếu tố chủ quan, suy diễn, thù địch, mâu thuẫn… lẫn nhau dẫn đến ra phán quyết thiên vị. Công lý không phải là đi tìm bằng được sự thật trong mọi bản án mà một trong những yêu cầu của công lý là đặt nặng thủ tục trừng phạt. Việc xem xét một người có tội hay không phải theo thủ tục tố tụng, chứ không phải dựa trên sự phỏng đoán. Khi cơ quan buộc tội không chứng minh được thuyết phục, công lý thể hiện ở chỗ, người đó đáng được vô tội. Công lý vẫn có nếu họ thực hiện một hành vi mà trình độ của họ vượt lên cả khả năng chứng minh của cơ quan buộc tội.
2. Một số hạn chế của cơ chế công chúng tham gia xét xử hình sự ở Việt Nam và kiến nghị
2.1. Cơ chế hình thành hội thẩm
Hội thẩm ở Việt Nam là những công dân hội đủ điều kiện sau[3]: (i) Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; (ii) Có kiến thức pháp luật; (iii) Có hiểu biết xã hội; (iv) Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
“ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 85 của Luật này để Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật định bầu Hội thẩm nhân dân;”[4].
Theo tác giả, cơ chế hình thành hội thẩm theo quy trình trên là chưa khoa học, phù hợp. Bởi lẽ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải là cơ quan nhà nước, cho nên không thể có động lực làm việc này một cách tốt nhất. Đơn giản là chúng ta không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu cơ quan này vi phạm các nguyên tắc trong tuyển chọn hội thẩm nhân dân. Hơn thế nữa, hội thẩm nhân dân chúng ta tuyển chọn và chỉ định có tính nội bộ trong đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghĩa là địa phương nào có nguồn hội thẩm của địa phương đó), cho nên tính cục bộ là rất cao.
“Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân.”[5]
Thậm chí, suốt cả năm, chỉ một số hội thẩm được mời xét xử vì có mối quan hệ thân thiết với Tòa án. Điều này làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hội thẩm khi họ đưa ra những quyết định của mình. Bên cạnh đó, hội thẩm nếu hình thành nội bộ như thế sẽ rất dễ thiên vị do những tình cảm cá nhân, do yếu tố quan hệ xã hội. Thậm chí, họ rất dễ hình thành những mối quan hệ nặng về tình cảm với cơ quan tố tụng, làm ảnh hưởng đến sự khách quan của phán quyết.
Cũng vì lý do này, nếu một bị cáo muốn hối lộ hội thẩm, đương nhiên việc tìm hiểu và xác định hội thẩm nào tham gia xét xử là chuyện rất đơn giản.
Do vậy, theo tác giả, chúng ta cần cải cách theo hướng sử dụng hội thẩm chung của toàn quốc. Định kỳ một hoặc hai năm, sẽ có một đợt tuyển chọn hội thẩm toàn quốc. Người được chọn và ghi tên vào danh sách hội thẩm toàn quốc sẽ có quyền và đồng thời có trách nhiệm tham gia bất cứ một phiên tòa nào, ở bất cứ địa phương nào theo kết quả xác định nào đó (có thể lựa chọn ngẫu nhiên qua máy tính). Khi lựa chọn hội thẩm tham gia một phiên tòa nhất định cần căn cứ vào nhiều yếu tố trong đó cần xem xét đến khoảng cách địa lý, nơi hội thẩm được lựa chọn đang cư trú và nơi diễn ra phiên tòa mà hội thẩm tham gia với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử để giảm thiểu chi phí, thời gian di chuyển... Ngoài ra, việc xem xét đến lĩnh vực công tác mà hội thẩm đang đảm nhiệm hoặc trước đây có đảm nhiệm có liên quan đến bị cáo trong vụ án cũng là một điều rất cần thiết. Có như vậy thì khi tới tham gia Hội đồng xét xử ở một địa phương khác, hội thẩm sẽ khách quan hơn, ít bị chi phối bởi những yếu tố tình cảm, cục bộ địa phương.
Chúng ta cũng cần thành lập một hội đồng, hoặc ủy ban lựa chọn hội thẩm toàn quốc do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đứng đầu hội đồng. Hội đồng này, theo quy định của luật, phải thực hiện nhiệm vụ tuyển chọn hội thẩm toàn quốc. Cũng theo đó, cần quy định Hội đồng tuyển chọn hội thẩm toàn quốc được quyền cử 05 hội thẩm thích hợp nhất đối với từng vụ án cụ thể. Năm hội thẩm này có trách nhiệm tiếp nhận và nghiên cứu hồ sơ vụ án, có mặt tại địa điểm xét xử đúng thời hạn. Việc lựa chọn 02 hội thẩm này trong số 05 hội thẩm (Hội đồng xét xử 03 người), 03 hội thẩm trong số 05 hội thẩm (Hội đồng xét xử 05 người) phải theo nguyên tắc bốc thăm. Cũng theo đó, việc cử hội thẩm cần bảo đảm tính bảo mật thông tin.
2.2. Về quyền của hội thẩm
Chúng ta nên duy trì một số quyền của hội thẩm theo đúng bản chất của hội thẩm. Hiện nay, quyền xét hỏi của hội thẩm không khác gì so với quyền xét hỏi của thẩm phán và cơ quan buộc tội.
Về mặt bản chất, hội thẩm chỉ nên hỏi để nhận thức đúng hơn, sát hơn những vấn đề đã diễn ra ở phiên tòa. Hội thẩm nếu hỏi những câu chưa xuất hiện ở phiên tòa rất dễ trở thành bên buộc tội. Thực chất hội thẩm là cơ chế sàng lọc thụ động. Bên buộc tội mới có chức năng chứng minh chủ động việc người nào đó có tội hay không? Do đó, theo chúng tôi, giới hạn quyền hỏi của hội thẩm góp phần thể hiện đúng bản chất của hội thầm là trọng tài, mà không thể là bên buộc tội được.
Một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cũng như nguyên tắc trong tố tụng đó là “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”[6].
Trường hợp Hội đồng xét xử gồm 03 người (02 hội thẩm, 01 thẩm phán), Hội đồng xét xử 05 người (03 hội thẩm, 02 thẩm phán), thì số lượng hội thẩm trong các phiên tòa sơ thẩm nhiều hơn so với thẩm phán. Một trong các tiêu chuẩn của hội thẩm đó là “có kiến thức pháp luật”[7]. Vậy một người có kiến thức pháp luật được hiểu như thế nào? Thước đo nào dể đánh giá kiến thức pháp luật của họ? Trong quá trình hình thành hội thẩm, việc lựa chọn ứng cử viên để Hội đồng nhân dân bầu sẽ trên cơ sở nào? Thiết nghĩ, các tiêu chuẩn nên được quy định rõ ràng hơn để dễ dàng trong quá trình lựa chọn hội thẩm theo đúng quy định của pháp luật
Có thể nhận thấy, nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu của Tòa án hiện nay đó chính là bảo vệ công lý. Sự tham gia của công chúng vào hoạt động xét xử của Tòa án đảm bảo tính chính đáng, tính đồng thuận, tính khách quan cho phán quyết; góp phần bảo vệ sự thật, bảo vệ công lý. Tuy nhiên, thực tế việc tham gia của công chúng trong hoạt động xét xử còn có nhiều điểm hạn chế. Việc cải cách chế độ hội thẩm trong việc hình thành hội thẩm, xác định vai trò của hội thẩm khi tham gia Hội đồng xét xử, quy định cụ thể tiêu chuẩn của hội thẩm, xác định rõ quyền của hội thẩm là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay./.
Ý kiến bạn đọc (0)
Các tin khác
Một số vấn đề về Dự thảo Luật Tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú
Hiện nay, công tác tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành tạm...
Một số bất cập về tham gia, hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo Luật Việc làm năm 2013 và kiến nghị hoàn thiện
Bài viết phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định của Luật Việc làm năm 2013 về việc tham gia và hưởng bảo hiểm thất nghiệp, từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Xây dựng quy chế mẫu hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong kỷ nguyên mới của đất nước
Bài viết tập trung làm rõ cơ sở chính trị, pháp lý và cơ sở thực tiễn xây dựng quy chế mẫu hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nước ta hiện nay, từ đó, đề xuất khung quy chế mẫu hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp - Thách thức đặt ra và một số giải pháp thực hiện
Trong xu thế hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực có kỹ năng nghề phải đáp ứng yêu cầu, đòi...
Đơn giản hóa trình tự, thủ tục và đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài
Đây là chủ trương đã được luật hóa trong Luật Đầu tư công năm 2024 nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh việc thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn ODA.