Tư tưởng Hồ Chí Minh về bầu cử
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bầu cử được thể hiện rõ trong việc ban hành các sắc lệnh về bầu cử. Ngày 03/9/1945, tức là một ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ: “Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân, trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”[1]. Tiếp theo đó là một loạt sắc lệnh về bầu cử ra đời thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về bầu cử, cụ thể:
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ: Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16 - 17/8/1945 tại khu Giải Phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên. Sắc lệnh đã khẳng định yêu cầu bức thiết của Tổng tuyển cử, đồng thời khẳng định chúng ta có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện khách quan và chủ quan để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử đó.
Ngày 26/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 39-SL về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định “Thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín”[2].
Ngày 02/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành tiếp Sắc lệnh số 71-SL và Sắc lệnh số 72-SL để bổ khuyết Sắc lệnh số 51-SL về thủ tục ứng cử và bổ sung số đại biểu bầu cho một số tỉnh. Trong các văn bản trên, các quy định cơ bản về nguyên tắc bầu cử đã được thể hiện rất rõ. Cụ thể là:
Trong Sắc lệnh số 14-SL về tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiếu được quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền bầu cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường”. Đây là nguyên tắc nhằm thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân trong nước, miễn là đến độ tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) đều được tham gia bầu cử. Nguyên tắc này cũng quy định rõ việc bầu cử đối với người nước ngoài mang quốc tịch Việt Nam; quyền bình đẳng nam, nữ trong bầu cử, ứng cử và địa bàn bầu cử theo phương thức: Mỗi người chỉ được bầu cử, ứng cử ở một nơi nhất định.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp được quy định tại Điều 31 Sắc lệnh số 51-SL nêu rõ: Khi bầu cử “mỗi cử tri phải thân hành đi bầu, không được ủy quyền và cũng không được bầu bằng cách gửi thư” nhằm chống gian lận và lợi dụng kẽ hở để chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Để động viên nhân dân trực tiếp đi bầu cử, trong “Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu” (ngày 05/01/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày mai, dân ta tỏ rõ cho các chiến sĩ ở miền Nam rằng: Về mặt quân sự thì các chiến sĩ dùng súng đạn mà chống quân thù. Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu để chống quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn”[3].
Nguyên tắc bỏ phiếu kín cũng được thể hiện tại các Điều 36 và Điều 38 của Sắc lệnh số 51-SL, nhằm bảo đảm bí mật, an toàn và sự tự do cá nhân trong bầu cử của các cử tri. Trong đó, đối với những người không biết chữ, Sắc lệnh 51-SL chỉ rõ: Ban phụ trách ở các điểm bầu cử phải lập tổ ba người để giúp cử tri thực hiện quyền bầu cử theo quy trình: Một người viết giúp, hai người kiểm tra. Sau đó, tổ này phải tuyên thệ trước cử tri đó rằng, đã viết đúng theo ý nguyện của họ và sẽ tuyệt đối giữ bí mật về điều đó. Đây là điểm rất sáng tạo, độc đáo và phù hợp với trình độ dân trí của nước ta lúc bấy giờ, nhất là đối với tầng lớp dân nghèo không có điều kiện đi học. Chính vì thế mà không khí dân chủ trong bầu cử đã bừng lên ở khắp nơi trong cả nước. Trên thực tế, địa phương nào cũng có người tự ứng cử; những cuộc tiếp xúc, bàn thảo diễn ra hết sức sôi nổi trong không khí thực sự tự do và dân chủ.
Có thể nói, với việc ban hành các sắc lệnh đầu tiên về bầu cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở pháp lý, nền tảng cho sự thành công của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đề nghị tổ chức Tổng tuyển cử thời gian này đã thể hiện một quyết định hết sức dũng cảm, đúng đắn và quyết liệt, thể hiện lòng tin tuyệt đối của Bác vào nhân dân ta. Vì vậy, mặc dù biết trình độ dân trí rất thấp (hơn 90% đồng bào ta không biết chữ), thù trong giặc ngoài đang chống phá nhưng Bác vẫn kiên quyết khẳng định: Nhân dân sẽ biết sử dụng lá phiếu của mình. Tổng tuyển cử nhất định thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia bầu cử
Song song với việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc tổ chức Tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên truyền, vận động nhằm giúp nhân dân hiểu về ý nghĩa của Tổng tuyển cử và kêu gọi nhân dân hăng hái tham gia.
Để kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng và tham gia một cách đầy đủ ngày hội Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người viết bài “Ý nghĩa Tổng tuyển cử” đăng trên Báo Cứu Quốc số 130, ngày 31/12/1945. Bài báo nêu rõ: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội bầu ra Chính phủ, Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của toàn dân... Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết...”[4].
Đặc biệt, một ngày trước khi diễn ra cuộc Tổng tuyển cử, Người đã có "Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu", đăng trên Báo Cứu Quốc số 134, ngày 05/01/1946. Rất giản dị, Người đi vào vấn đề cụ thể, gọn rõ: “Ngày mai mồng 6 tháng Giêng năm 1946. Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình...”. Trong Lời kêu gọi của Người ta như thấy toát lên trong đó những nỗi niềm hân hoan vui sướng, bởi đã hàng nghìn năm qua, một sự kiện tương tự như thế chưa bao giờ xảy ra, chưa bao giờ người dân lại có trong tay cái quyền làm chủ. Và để có được cái quyền thiêng liêng này, dân tộc ta đã phải trải qua biết bao hy sinh, mất mát, đau thương. Chính vì thế mà như lời Người nói, ngày 06/01/1946 ấy “chính là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”[5]. Một thứ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Người khẳng định: “Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”[6]. Với lời lẽ giản dị, xúc động, Lời kêu gọi toàn dân đi bầu cử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm vào trái tim của từng người con Việt Nam, khích lệ, động viên toàn thể quốc dân đồng bào vui vẻ, hứng khởi đi thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của một dân tộc tự do, độc lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp thực hiện quyền bầu cử[7]
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là ứng cử viên đồng thời cũng là cử tri đi bầu cử ba nhiệm kỳ Quốc hội, gồm: Quốc hội khóa I (1946 - 1960), Quốc hội khóa II (1960 - 1964) và Quốc hội khóa III (1964 - 1971). Ở cương vị ứng cử viên hay cử tri, Bác đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc về tinh thần, trách nhiệm của một công dân đối với đất nước.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946, chiều hôm trước ngày Tổng tuyển cử, Bác đã đến khu Việt Nam học xá (nay là khu vực Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) dự lễ ra mắt các ứng cử viên trước đoàn thể nhân dân Hà Nội. Thay mặt các ứng cử viên, Bác nói: “Từ trước đến nay, toàn quốc chưa bao giờ tuyển cử vì xưa chưa bao giờ làm chủ mình. Xưa, dân phải nghe lời vua quan, sau phải nghe thực dân Pháp, Nhật. Vừa rồi đây, ta mới giành được độc lập. Ta đã phải hy sinh nhiều mới có cái quyền cầm lá phiếu này… Bây giờ làm việc nước là hy sinh, phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu. Ngày mai không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ ấy”.
Với uy tín rất cao tại thời điểm bầu cử nhưng khi 118 vị chủ tịch UBND và tất cả các đại biểu làng xã tại Hà Nội đề nghị Bác “miễn phải ứng cử” và suy tôn Người làm Chủ tịch vĩnh viễn nhưng Bác đã từ chối. Đáp lại nguyện vọng trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư trả lời đồng bào như sau: “Tôi rất cảm động được đồng bào quá yêu mà đề nghị: Tôi không phải ra ứng cử, đồng bào các nơi khắc cử tôi vào Quốc hội. Nhưng tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tôi không thể vượt qua khỏi thể lệ của Cuộc Tổng tuyển cử đã định”[8].
Theo đó, ngày 06/01/1946, cùng với hơn 90% cử tri đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi bỏ phiếu thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân tại thùng phiếu số 10, phố Hàng Vôi (nay là phố Lý Thái Tổ), Hà Nội.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu với 98,4% số phiếu. Kết quả này là một bằng chứng về khát vọng độc lập, tự chủ của dân tộc ta và uy tín tuyệt đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn thể nhân dân Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu ra được tổng số đại biểu là 403, gồm 333 đại biểu được nhân dân bầu chính thức, 70 đại biểu không qua bầu cử (20 đại biểu thuộc Việt Nam cách mệnh đồng minh hội và 50 đại biểu thuộc Quốc dân Đảng). Trong số các đại biểu được bầu có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái yêu nước và cách mạng khác nhau, 43% không đảng phái; có 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu các dân tộc thiểu số.
Như vậy, cùng với nhân dân cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong bối cảnh vô cùng khó khăn. Người đã nêu tấm gương sáng về lòng yêu nước, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm thực hiện đúng lời dạy của Người trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc Hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Lựa chọn những đại biểu xứng đáng là quyền lợi và nghĩa vụ của người cử tri. Lá phiếu cử tri có giá trị rất cao quý; nó là một dấu hiệu xác nhận rằng nhân dân ta thật sự làm chủ nước nhà. Nhân dân ta đã đấu tranh lâu dài và anh dũng, đã hy sinh biết bao xương máu trong cách mạng và trong kháng chiến mới giành được và giữ được quyền dùng lá phiếu ấy. Vì vậy, đối với lợi ích chung của Tổ quốc cũng như đối với lợi ích riêng của mỗi người, đồng bào cử tri phải làm tròn nhiệm vụ của mình”. Người còn viết: “Những người trúng cử sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà. Vì lợi chung, quên lợi riêng. Phải làm cho xứng đáng với đồng bào, cho xứng đáng với Tổ quốc”. Còn những người không trúng cử, lời của Bác như động viên, căn dặn, thấu lý đạt tình, vừa chứa đựng đầy tính nhân văn mà vô cùng sâu sắc: “Người không trúng cử cũng không nên ngã lòng. Mình đã tỏ lòng hăng hái với nước với dân, thì luôn luôn phải giữ lòng hăng hái đó. Ở trong Quốc hội hay ở ngoài Quốc hội, mình cũng cứ ra sức giúp ích nước nhà. Lần này không được cử, ta cứ gắng làm cho quốc dân nhận rõ tài đức của ta thì lần sau quốc dân nhất định cử ta”.
Lời căn dặn của Người trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên ấy đã và đang vang vọng trong suốt 75 năm lịch sử của dân tộc Việt Nam và vẫn còn nguyên giá trị về tư tưởng và pháp lý cho đến ngày nay. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, ngày 23/5/2021 này, nhớ Lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu, đồng bào và cử tri cả nước nhất định sẽ sáng suốt lựa chọn được những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có tâm sáng, lòng trong, có trí tuệ, tâm huyết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, xứng đáng là đại biểu đại diện cho ý chí nguyện vọng của dân, để cùng với Đảng, Nhà nước và Chính phủ gánh vác trọng trách đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách, vượt qua thiên tai, dịch bệnh, xây dựng một nước Việt Nam vững bước tiến nhanh, tiến mạnh trên đường hội nhập vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Ảnh: Internet