Thứ sáu 13/06/2025 08:23
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cơ sở pháp lý đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam

Lịch sử cho thấy, lâu nay con người luôn có ý thức về sự tham gia của mình vào môi trường thiên nhiên, cái quyết định cuộc sống của họ. Những ghi chép cổ xưa trong các tôn giáo khác nhau đã chứng tỏ điều này.

1. Mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên


Lịch sử cho thấy, lâu nay con người luôn có ý thức về sự tham gia của mình vào môi trường thiên nhiên, cái quyết định cuộc sống của họ. Những ghi chép cổ xưa trong các tôn giáo khác nhau đã chứng tỏ điều này. Trong các sách kinh về sự hình thành, có một điểm chung giữa các đạo Do thái, Thiên chúa giáo và Hồi giáo là Chúa trời trao cho con người quyền thống trị muôn loài, tạo ra sự liên kết không chỉ với con người mà còn với các loài chim, gia súc và các động vật hoang dã [1]. Trong đạo phật, một văn bản có từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên đã dẫn một lời nói dành cho một vị vua để nhắc nhở ông ta rằng, các loài chim ở trên trời và các loài thú vật cũng có quyền sống và quyền tự do di chuyển giống như chính nhà vua: Trái đất thuộc về loài người và tất cả các sinh vật sống, nhà vua chỉ là người canh giữ [2]. Nhiều nền văn minh khác cũng thừa nhận một mối liên hệ huyền bí giữa họ với thiên nhiên, những thuyết về vũ trụ bắt đầu bằng sự kết hôn giữa Mặt đất, Bầu trời và Thời gian. Trong quan niệm của người châu Phi, châu Mỹ hay châu Á, đất là nữ thần mẹ của loài người. Đất vừa sinh ra con người vừa nuôi dưỡng con người. Như vậy, đất rất thiêng liêng và các loài động vật cũng như thực vật xứng đáng được tôn trọng, các buổi lễ hiến tế hay các nghi lễ trước khi săn bắn hay gặt hái đã chứng minh cho điều đó.


Các quan điểm trên cũng đã dần thay đổi cùng với sự xuất hiện của lợi nhuận, chú trọng đến giá trị vật chất, ở những nơi nông nghiệp và công nghiệp phát triển, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên đã bị đảo lộn. Sự phát triển của kỷ nguyên công nghiệp và những tiến bộ kinh ngạc của khoa học kỹ thuật đã nảy sinh ra một tư tưởng là từ nay con người, những người chủ duy nhất của thế giới, có thể tự cho phép mình làm tất cả và phải làm chủ thiên nhiên. Trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ăngghen đã cho rằng: “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta, nằm trong lòng giới tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” [3]. Ăngghen khẳng định rằng, do nhận thức được quy luật của tự nhiên mà con người có thể dự báo được những hậu quả do sự tác động của con người vào môi trường thiên nhiên: “Nhưng nếu chúng ta đã phải trải qua hàng nghìn năm lao động mới có thể trong một chừng mực nào đó, đánh giá trước được những hậu quả tự nhiên xa xôi của những hành động sản xuất của chúng ta, thì chúng ta lại càng phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết được những hậu quả xã hội xa xôi của những hành động ấy” [4].


Để giải đáp các thách thức mà ô nhiễm môi trường, suy thoái hay sự cố môi trường đã đặt ra, sau những lời cảnh báo của các nhà khoa học từ những năm 1960, chúng ta cần nhắc lại quan điểm chung của một số nước trên thế giới đã thúc đẩy các Chính phủ quan tâm đến tình trạng của môi trường. Các dòng nước, đại dương, khí quyển, hệ động thực vật hoang dã không có biên giới: Sự tác động chính bên trong một quốc gia có thể gây ra những hậu quả cho môi trường ở bên ngoài biên giới nước đó hoặc tại lãnh thổ của nước khác hoặc trên bề mặt biển. Theo cách nhìn này, hiện tượng thủy triều đen bị gây ra bởi các tai nạn tràn dầu và vụ tai nạn Tchernobyl năm 1986 chính là những lời cảnh báo nghiêm trọng. Như vậy mối quan hệ chặt chẽ giữa sức khoẻ con người và chất lượng môi trường ngày càng trở nên hiển nhiên hơn.
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, người dân luôn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do các hoạt động phát triển kinh tế gây ra và công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập. Môi trường vẫn từng ngày, từng giờ bị chính các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của người dân làm ô nhiễm nghiêm trọng. Đó là kết quả tất yếu của sự thiếu ý thức tôn trọng môi trường thiên nhiên ở nước ta. Nếu những hành vi của con người phù hợp với quy luật của tự nhiên thì môi trường sẽ là người bạn tốt, đầy thiện chí, ngược lại, những hành vi trái với quy luật tự nhiên thì sức trả thù của môi trường sẽ lớn hơn bất cứ lực lượng xã hội nào [5].

2. Nhận thức về quyền được sống trong môi trường trong lành

Hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp luôn góp phần bảo đảm thực hiện những nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam, trong đó có nguyên tắc “bảo đảm và ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của con người”. Khái niệm quyền về môi trường xuất hiện lần đầu tiên trên bình diện quốc tế, đó là Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và con người (Hội nghị Stockhom năm 1972) nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy đủ các điều kiện sống trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau” [6]. Quyền về môi trường cũng được ghi nhận tại Hiến chương châu Phi về các quyền của con người và các dân tộc năm 1981, Điều 24 quy định: “Tất cả các dân tộc có quyền có một môi trường thỏa mãn và toàn cầu, có lợi cho sự phát triển của họ”; Điều 11 Nghị định thư bổ sung Hiệp ước châu Mỹ về các quyền của con người về kinh tế, xã hội và văn hoá được thông qua tại San Salvador ngày 17/11/1988 đã mang đến những chỉ dẫn bổ sung. Nó cũng thừa nhận: “Quyền có một môi trường trong lành: (i) Tất cả mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành và hưởng những trang thiết bị chung chủ yếu; (ii) Các nước thành viên khuyến khích việc bảo vệ, bảo tồn và cải thiện môi trường”.

Hiệp ước châu Phi về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và sự phát triển, được thông qua ngày 11/7/2003 tại Maputo, là văn bản quốc tế hoàn chỉnh nhất về điểm này: “Bằng việc sử dụng các biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu của Hiệp ước này và thực thi những điều khoản của nó, các nước thành viên sẽ được chỉ dẫn bởi: (i) Quyền của tất cả các dân tộc có môi trường thỏa mãn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của họ; (ii) Nghĩa vụ của các nước, một cách cá nhân hay tập thể, phải bảo đảm việc thực hiện quyền phát triển; (iii) Nghĩa vụ của các nước phải làm thỏa mãn các nhu cầu về phát triển và môi trường theo cách bền vững, đúng và cân bằng”. Hai phương diện của quyền về môi trường: Quyền của tất cả mọi người và nghĩa vụ của Nhà nước, nằm trong Hiến pháp của rất nhiều nước theo cách toàn bộ hoặc tách rời các phương diện trên. Chúng ta cũng có thể nhắc lại rằng Điều 24 của Hiệp ước ngày 20/11/1989 về các quyền của trẻ em quy định các nước phải có nghĩa vụ đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm bảo vệ sức khỏe của trẻ em, đặc biệt bằng cách chú trọng đến các vấn đề nguy hiểm và các nguy cơ gây ra bởi ô nhiễm môi trường. Cũng như thế, Hiệp ước 169 của Tổ chức Lao động quốc tế về các dân tộc bản xứ tại các nước độc lập bắt buộc các nước thành viên phải thực hiện các biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường của các dân tộc này [7]. Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển – Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992 cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Như vậy, thực hiện tốt pháp luật bảo vệ môi trường, trên một bình diện nào đó đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền được sống trong một môi trường với chất lượng đạt tiêu chuẩn cho phép, cuộc sống được bảo đảm lành mạnh, hữu ích và được hài hòa với môi trường thiên nhiên.

3. Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam

Bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam nói riêng liên quan trực tiếp đến lợi ích của con người: Môi trường là không gian tồn tại của con người, là nơi con người khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nơi cung cấp cơ sở vật chất cho con người tồn tại và phát triển đồng thời cũng là nơi tiếp nhận tất cả những chất thải do con người loại ra. Môi trường thực sự đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Do vậy, để bảo vệ tốt quyền được sống trong môi trường trong lành, quan hệ giữa các chủ thể phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật bảo vệ môi trường. Để bảo vệ môi trường có hiệu quả, ngăn ngừa và giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực đến con người và sinh vật và được thực hiện trong một trật tự nhất định trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định về bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực chính trị, thông qua hệ thống các quy phạm pháp luật để thể chế các quan điểm, đường lối, chính sách của mình liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường, quy định quy trình thực hiện hoạt động ngăn ngừa, hạn chế, xử lý ô nhiễm môi trường; quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo vệ môi trường và trách nhiệm pháp lý khi thực hiện những vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.

Với các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay có thể thấy, chúng ta chưa xây dựng được một khung pháp luật thực sự hoàn thiện trên lĩnh vực này. Thực tế, trong hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam đã manh nha hình thành cơ chế bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành từ những năm 1990 khi yêu cầu này xuất hiện và được thể hiện trong đạo luật đầu tiên về bảo vệ môi trường ở nước ta vào năm 1993. Tiếp đó, tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành đã được xác định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đặc biệt là trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Đối chiếu những quy định đó trong thực tiễn áp dụng chúng ta sẽ thấy được những kết quả đã đạt được đồng thời còn tìm ra nhiều điểm bất cập cần được khắc phục, giải quyết. Chúng tôi xin đề cập một số hạn chế, bất cập chủ yếu như sau:

Một là, các quy định về hoạt động đánh giá môi trường còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập dẫn tới khó khăn trong hoạt động bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường ở Việt Nam. Thực tế, đối với nhiều dự án, việc thực hiện các quy định pháp luật về báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) còn mang nặng tính hình thức. Tồn tại tình trạng nhiều báo cáo ĐTM quá kém về chất lượng.

Hai là, trong thời gian qua, việc phát triển kinh tế mạnh mẽ ở nước ta là nguyên nhân phát sinh ngày càng lớn lượng chất thải gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khỏe của người dân. Có thể thấy rõ các quy định về quản lý chất thải đã được Nhà nước ban hành cơ bản và đi vào cuộc sống, tuy nhiên, các quy định này còn chưa được hoàn thiện và chưa được thực thi triệt để trên thực tế. Nguyên nhân là do thiếu cơ chế triển khai thực hiện, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc không thể phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về một số nội dung chủ yếu về quản lý chất thải như nhân lực, bộ máy tổ chức, trình độ, các hướng dẫn kỹ thuật... vẫn còn thiếu, dẫn đến các hoạt động khó triển khai, đặc biệt đối với công tác quản lý chất thải nguy hại. Đối với chất thải rắn hiện nay còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý, như hệ thống tổ chức và phân công trách nhiệm quản lý chất thải rắn đang được kiện toàn và phân công tương đối cụ thể từ trung ương đến địa phương nhưng vẫn còn phân tán, chồng chéo và nhiều lỗ hổng.

Ba là, những hạn chế trong việc xây dựng và ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường là các quy định khá quan trọng mà các cơ quan nhà nước cần phải quy định để đánh giá, kiểm soát sự thay đổi của môi trường, là cơ sở pháp lý để nhà nước kiểm soát những tác động tiêu cực gây ra cho môi trường từ các hoạt động phát triển kinh tế ở nước ta. Theo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 thì quy chuẩn kỹ thuật môi trường được hiểu là quy định mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Quy chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể có liên quan. Có thể thấy, khái niệm về quy chuẩn kỹ thuật môi trường còn khá mới mẻ ở Việt Nam, vì thế đã gây khó khăn, lúng túng trong quá trình tổ chức thực hiện. Quy trình xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường còn nhiều vướng mắc, bất cập, mất nhiều thời gian. Các tổ chức, cá nhân chưa thực sự hiểu về vấn đề này để tham gia vào quá trình xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường, chưa chú trọng đóng góp ý kiến.

Bốn là, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được quy định tập trung vào một đầu mối thống nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường, tuy nhiên vẫn chưa thật sự triệt để. Vì hiện nay, việc quản lý tài nguyên vẫn còn được quy định rải rác phân bổ cho các bộ, ngành khác nhau, do vậy vấn đề phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động bảo vệ môi trường chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.

Năm là, những vướng mắc trong vấn đề xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Có thể nhận thấy tỷ lệ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ vi phạm pháp luật môi trường rất cao. Nhìn chung, công tác xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường đã được các cơ quan chức năng cố gắng thực hiện và đã có được những kết quả nhất định, tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau: Đơn cử như năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cũng chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc kiểm tra chưa được thường xuyên, sát sao; chưa kịp thời phát hiện và xử lý được nhiều vụ vi phạm pháp luật môi trường mang tính nghiêm trọng; thực tế hiện nay, các mức phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung là còn quá nhẹ, không hợp lý và còn nhiều điểm quy định rất chung chung. Ngay cả các quy định về tội phạm môi trường với các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp… Do đó, trong thời gian qua, có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định này mà vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt quá nhẹ so với kinh phí trang thiết bị đầu tư cho công tác xử lý ô nhiễm môi trường. Vì vậy, sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực. Giải pháp đề ra là, trong thời gian tới, chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác bảo vệ môi trường nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân Việt Nam.

TS. Lê Kim Nguyệt

Tài liệu tham khảo:

[1]. Nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ (2002), Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.

[2]. George Turnour (1837), Mahvamsa 14 Chapters, Cotto.

[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 654, 655.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 655, 656.

[5]. Phan Văn Thạng (2011), Mối quan hệ giữa con người và môi trường trong sự phát triển bền vững ở nước ta nhìn từ góc độ xã hội học, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 18a, tr. 251.

[6]. Xem: Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và con người, Nguyên tắc 1, (1995), Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 11.

[7]. Quy định tại khoản 1 Điều 4 Hiệp ước 169 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm