1. Sự cần thiết phải xây dựng nguyên tắc thu hồi đất và thu hồi đất vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án
Thứ nhất, bảo đảm hoạt động thu hồi đất được tiến hành đúng theo yêu cầu của pháp luật.
“Nguyên tắc” chính là nền tảng pháp lý quan trọng để phân định ranh giới giữa hành vi nào là phù hợp với quy định pháp luật và hành vi nào là vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, nguyên tắc còn là kim chỉ nam hướng dẫn hành vi xử sự của con người một cách chung nhất, đảm bảo nhất quán hành động của công dân trong một xã hội pháp quyền. Trong lĩnh vực đất đai, một lĩnh vực được cho là “nóng” ở Việt Nam trong suốt nhiều năm qua[1], việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc trong quản lý và sử dụng đất lại càng vô cùng cấp thiết, đặc biệt là trong quá trình Nhà nước tổ chức thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc xây dựng nguyên tắc trong thu hồi đất sẽ góp phần đòi hỏi các chủ thể có liên quan thực hiện công tác này một cách nhanh chóng, đảm bảo chặt chẽ, phù hợp với quy trình, thủ tục mà pháp luật quy định.
Thứ hai, đảm bảo tính hợp lý về sự cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật thu hồi đất[2]. Trong quá trình phát triển, sự đối lập về nhiều phương diện giữa các chủ thể khác nhau trong tổng hòa các mối quan hệ kinh tế - xã hội thường xuyên xuất hiện, trong đó có phương diện về lợi ích kinh tế. Nếu như việc giải quyết các đối lập này được thực hiện tốt sẽ giúp cho mối quan hệ giữa các chủ thể trở nên hài hòa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, hệ lụy từ những mâu thuẫn, căng thẳng nếu như không giải quyết được bài toán về lợi ích kinh tế trong quá trình phát triển thật khó có thể lường trước được, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai[3]. Đứng trước nhu cầu sử dụng đất để xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, chỉnh trang, xây dựng đô thị đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, công tác thu hồi đất nói chung và thu hồi đất trong vùng phụ cận nói riêng sẽ tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn từ lợi ích kinh tế mà các nhóm chủ thể luôn muốn tranh nhau giành phần hơn về mình. Chính vì lẽ đó, Nhà nước với tư cách là một chủ thể tham gia vào hoạt động thu hồi đất, đồng thời, cũng là chủ thể quản lý xã hội trên mọi mặt của đời sống nên cần phải có những định hướng đúng đắn trên cơ sở đảm bảo hài hòa về quyền và lợi ích chính đáng giữa các chủ thể trong quá trình thu hồi đất và giải quyết các chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Thứ ba, phải đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội. Có thể nhận thấy, trong nhiều năm vừa qua, dư luận hết sức quan tâm đến những “điểm nóng” nổi cộm liên quan đến đất đai, gây ảnh hưởng nhất định đến trật tự, an toàn xã hội của địa phương như vụ Tiên Lãng (Hải Phòng), vụ Đồng Tâm (Hà Nội)... Chính vì thế, xây dựng nguyên tắc khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những phương pháp nhằm điều chỉnh nhận thức chung của các chủ thể tham gia vào quy trình này trên cả nước, hạn chế trường hợp mỗi địa phương “sáng tạo” thêm những cách làm mới, vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý, tạo nên những “điểm nóng” gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến tài sản, sức khỏe và thậm chí là tính mạng con người.
Thứ tư, nhằm đảm bảo quá trình đô thị hóa diễn ra theo lộ trình, phát triển bền vững tại các đô thị và hạn chế tình trạng “quy hoạch treo”, “dự án treo”. Nhu cầu đô thị hóa và sử dụng đất để mở rộng không gian đô thị là một tất yếu trong xu thế phát triển tại nước ta. Điều này đồng nghĩa với việc chuyển đổi một phần diện tích đất sản xuất nông nghiệp thành khu đô thị, khu dân cư nông thôn; đồng thời, nông dân dần chuyển mình thành công dân đô thị với những thay đổi về tập quán, tâm lý, lối sống, việc làm, thu nhập… Đô thị hóa làm cho diện mạo của một quốc gia thay đổi, hiện đại và văn minh hơn. Tuy nhiên, nếu không có quy hoạch tổng thể, đồng bộ, nhất quán sẽ dễ dàng dẫn đến tình trạng ồ ạt, tự phát xây dựng khu đô thị, khu dân cư nông thôn gây lãng phí và kém hiệu quả. Chính vì vậy, công tác lập quy hoạch, thu hồi đất vùng phụ cận, giải phóng mặt bằng cần được các cấp chính quyền quan tâm, thực hiện dựa trên nguyên tắc đồng thuận của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của người dân để đạt được hiệu quả tối ưu nhất. Để làm được điều này, trước hết phải có được những quy định mang tính nguyên tắc soi rọi xuyên suốt quá trình thực hiện từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến khâu thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Thứ năm, nhằm góp phần hạn chế tình trạng lợi ích nhóm, tham nhũng trong quản lý đất đai. Những năm qua, số dự án đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất một cách công khai, minh bạch không nhiều[4]. Theo thống kê đăng tải trên Báo Người lao động, có hơn 1.300 dự án điều chỉnh quy hoạch nhiều lần, đặc biệt có dự án được điều chỉnh hơn 05 lần và việc điều chỉnh theo đề xuất của nhà đầu tư đã làm thay đổi rất nhiều so với các bản quy hoạch ban đầu, điều này vô hình trung gây hệ lụy lớn về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tại khu vực đó[5]. Do vậy, việc xây dựng bổ sung nguyên tắc thu hồi đất sẽ góp phần không nhỏ trong ngăn chặn tình trạng tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm trong việc thu hồi đất, quá đó hạn chế tình trạng khiếu kiện trong dân, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
2. Kiến nghị xây dựng nguyên tắc thu hồi đất và thu hồi đất vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án
2.1. Đảm bảo sự lãnh đạo, định hướng của Đảng trong quá trình thu hồi đất
Đất đai và con người từ lâu đã trở thành một cặp phạm trù có mối quan hệ gắn bó với nhau trong suốt chiều dài lịch sử. Trong tiến trình phát triển của loài người, phân hóa xã hội gia tăng làm xuất hiện các xã hội có giai cấp trên thế giới. Đặc biệt, với sự ra đời của Nhà nước, đất đai cũng dần trở thành một trong các mối quan tâm của nhiều chủ thể xã hội. Chính vì lẽ đó, trong suốt nhiều thập niên qua, vấn đề đất đai và đổi mới chính sách đất đai ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục trở thành một đề tài thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách… trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đất đai luôn đóng một vai trò nền tảng quan trọng trong quá trình thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật cụ thể ngay từ những ngày đầu Đảng ta ra đời đến nay.
Có thể nhận thấy, qua các kỳ Đại hội của Đảng, nhiều văn kiện quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình thể chế hóa pháp luật đất đai ở nước ta đã ra đời. Cách đây hơn một thập niên, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 12/3/2003 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại văn kiện này, Đảng ta đã xác định chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội đối với việc quản lý và sử dụng đất.
Ngày 31/10/2012, Đảng ta tiếp tục ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 19-NQ/TW) đã đưa ra những đánh giá mang tính toàn diện về quá trình quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam, đồng thời, đề ra những định hướng quan trọng đối với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Đặc biệt, văn kiện này đã xây dựng cơ sở vững chắc cho việc sửa đổi, bổ sung và ra đời của Luật Đất đai năm 2013. Tại Nghị quyết này, Đảng ta đã chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế trong chính sách đất đai nhiều năm qua như công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất đai. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng; nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường bất động sản phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” còn khá phổ biến; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Trên cơ sở chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, Nghị quyết số 19-NQ/TW đã có những định hướng cụ thể trong từng hoạt động quản lý, trong đó có vấn đề thu hồi đất trong vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án. Cụ thể, Đảng ta đề ra định hướng đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, chỉnh trang đô thị, cần quy hoạch cả phần diện tích đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ cận để thu hồi đất, tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư cho các công trình này, hỗ trợ người có đất bị thu hồi và tăng thu ngân sách nhà nước; đồng thời, ưu tiên cho người bị thu hồi đất ở được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, với những định hướng trên, Đảng ta tiếp tục xác định quản lý, sử dụng đất đai nói chung là một vấn đề mang ý nghĩa quan trọng trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết số 19-NQ/TW là nền tảng quan trọng trong quá trình xây dựng các quy định về thu hồi đất, thu hồi đất trong vùng phụ cận trong Luật Đất đai năm 2013, tạo điều kiện phát triển nguồn vốn để đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, hình thành chuỗi đô thị hiện đại, văn minh đáp ứng kịp thời quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Khi tiến hành thu hồi đất và thu hồi đất trong vùng phụ cận cần phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nội dung quan trọng để tạo nên sự thay đổi đồng bộ và nhất quán trong quá trình phân phối đất đai cũng như phát triển đô thị ở Việt Nam, tuân thủ đúng nguyên tắc sử dụng đất là “đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” (khoản 1 Điều 6 Luật Đất đai năm 2013).
Việc thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có một số ưu điểm sau đây: (i) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể lập quy hoạch mang tính toàn diện, bao quát, chủ động gắn với việc thay đổi, chỉnh trang bộ mặt hiện trạng của đô thị hoặc xây dựng những đô thị mới một cách đồng bộ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội[6], hạn chế trường hợp nhà “siêu mỏng”, “siêu méo”; (ii) Việc tuân thủ nguyên tắc thu hồi đất vùng phụ cận phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn cho phép chính quyền địa phương chủ động tạo được nguồn vốn dự trữ cho các dự án giải phóng mặt bằng đã được lên kế hoạch từ trước; (iii) Nguyên tắc này còn đảm bảo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền không bị động trong khâu bồi thường, hỗ trợ và đặc biệt là trong quá trình tổ chức tái định cư. Cùng với quá trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chính quyền địa phương tiến hành khảo sát trên nhiều phương diện, đánh giá và lựa chọn phương án bồi thường, tái định cư trước khi tiến hành khâu thu hồi đất; (iv) Việc tuân thủ nguyên tắc trên còn giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định ranh giới thu hồi đất vùng phụ cận, hạn chế được tình trạng thu hồi đất một cách tràn lan, gây lãng phí đến nguồn lực đất đai.
Bắt nguồn từ những ưu điểm trên, Nghị quyết số 19-NQ/TW xác định việc thu hồi đất nên thực hiện trực tiếp theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã được xét duyệt để phát huy những ưu điểm nêu trên. Tuy nhiên, thực tiễn công tác giải phóng mặt bằng trong nhiều năm qua cho thấy, khi quy hoạch không khả thi thì cơ chế thu hồi đất theo quy hoạch có thể dẫn đến tình trạng bỏ hoang đất đã thu hồi, vừa lãng phí đất đai và vừa gây bức xúc cho người có đất bị thu hồi[7]. Thực trạng trạng “quy hoạch treo” không còn hiếm gặp ở các địa phương nước ta khi mà vô số các dự án, quy hoạch vẫn nằm “chờ thời”[8].
Qua đó cho thấy, tuân thủ nguyên tắc đảm bảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong thu hồi đất là việc làm vô cùng quan trọng. Điều này đòi hỏi chính quyền địa phương phải có tầm nhìn trong thiết kế quy hoạch, đánh giá tiềm năng thu hút đầu tư và có chế độ đãi ngộ hợp lý cho những người tham gia công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
2.3. Đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Không chỉ ở Việt Nam mà đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan niệm rằng đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước. Quản lý và sử dụng đất đai là vấn đề rộng lớn, phức tạp, hệ trọng liên quan đến giữ vững thành quả cách mạng, ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Do đó, một trong số những định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đề ra khi tiến hành đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai là sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Vì vậy, hoạt động thu hồi đất, thu hồi đất trong vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án cũng không được xa rời nguyên tắc trên. Trong quá trình thực hiện, việc sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả sẽ góp phần tối ưu hóa giá trị và giá trị sử dụng của đất đai, mang lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia.
2.4. Phải đảm bảo công khai, minh bạch, nắm vững tập quán định cư và tâm lý người có đất bị thu hồi
Công khai, minh bạch là nguyên tắc căn bản cho các hoạt động thu hồi đất, từ giai đoạn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho đến khi hoàn thành các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư thực hiện dự án. Đây là yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong khu vực quy hoạch cũng như nhà đầu tư. Nguyên tắc công khai, minh bạch đòi hỏi chính quyền địa phương tạo điều kiện để người dân được tiếp cận và nắm bắt các thông tin có liên quan đến việc thu hồi đất, thu hồi đất trong vùng phụ cận, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin trong thu hồi đất không chỉ đảm bảo quyền lợi của người dân mà còn đóng vai trò phục vụ cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai[9]. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2013 còn có quy định về quyền giám sát của công dân đối với việc quản lý, sử dụng đất đai (tại Điều 199). Theo đó, công dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình trong các nội dung quan trọng như việc lập, điều chỉnh, công bố, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; việc giao đất, cho thuê đất; việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất… Có thể nói, đây là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho người dân có được “tiếng nói” cần thiết, thể hiện được quyền của chủ sở hữu đối với loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng này.
Bên cạnh vấn đề công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất nói chung và trong thu hồi đất nói riêng, việc nắm vững các yếu tố về tập quán, truyền thống, tâm lý của người có đất bị thu hồi là một trong những nguyên tắc đảm bảo sự thành công, hiệu quả và tiến độ thực hiện dự án có thu hồi đất. Theo Đại từ điển tiếng Việt, tập quán là “thói quen hình thành từ lâu trong đời sống, được mọi người làm theo”[10]. Giá trị xã hội mà tập quán mang lại cho cộng đồng dân cư là không thể phủ nhận, trong đó, có yếu tố ổn định đối với đời sống, sản xuất của người dân trong khu vực[11]. Tuy nhiên, trong quá trình Nhà nước thực hiện thu hồi đất nói chung, sự xáo trộn đến cuộc sống ổn định mà tập quán, truyền thống mang lại từ lâu đối với người dân trong dự án là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, đảm bảo được nguyên tắc trên là một trong vấn đề cần được sự quan tâm của chính quyền địa phương.
Ở nước ta, mặc dù quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ; tuy nhiên, người dân vẫn còn mang nặng tư tưởng của cư dân nông nghiệp truyền từ bao đời nay, đó là quan niệm về “bờ xôi ruộng mật”, “an cư lạc nghiệp”. Cùng với đó, tâm lý lo ngại về tình trạng khan hiếm đất trong tương lai do sự bùng nổ dân số đô thị đã khiến cho hoạt động đầu cơ về nhà đất diễn ra mạnh mẽ tại các đô thị lớn. Điều này đã vô hình trung làm cho quá trình thu hồi đất tại các đô thị lớn diễn ra khá chậm, thậm chí là kéo dài nhiều năm liền. Từ thực tiễn trên cho thấy, yếu tố tập quán và tâm lý dân cư cần phải được quan tâm đúng mức khi tiến hành thu hồi đất. Bởi lẽ, mỗi thửa đất, mảnh vườn, ngôi nhà, ao cá, bờ đê… không chỉ có liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất của người dân mà nó còn mang yếu tố tinh thần, yếu tố truyền thống và tâm linh từ bao đời nay của dân tộc. Do đó, để đạt được mục tiêu thu hồi đất hiệu quả, đúng tiến độ, cần phải xem xét đúng mức, cân nhắc kỹ lưỡng đến yếu tố này trong quá trình quy định và thực hiện chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất.
2.5. Phải đảm bảo phát huy các nguồn lực gắn với mục tiêu phát triển bền vững
Nguồn lực là một khái niệm bao hàm nhiều yếu tố vật chất hữu hình và vô hình cần thiết có thể tạo ra lợi ích nhất định dưới một hình thức nào đó. Trong quá trình thực hiện thu hồi đất và thu hồi đất trong vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án, cần phải có sự tham gia của nhiều loại nguồn lực khác nhau. Trong đó, mỗi nguồn lực lại đóng một vai trò khác nhau, quyết định đến sự thành công hay thất bại của một dự án. Nếu như điều kiện tự nhiên là nguồn lực có sẵn của mỗi địa phương thì các nguồn lực về vốn lại có thể huy động linh hoạt khi chính quyền có chính sách phù hợp. Ngoài ra, con người nên được xem là nguồn lực nền tảng trong quá trình thu hồi đất. Bởi lẽ, sự tham gia của đội ngũ thực thi nhiệm vụ trong xuyên suốt các khâu để có được một diện tích đất “sạch” là vô cùng cần thiết, mỗi khâu trong chu trình đó cần có bộ phận chuyên môn phụ trách, đảm bảo được chất lượng và các yêu cầu khắt khe khác của công việc để tạo nên kết quả cuối cùng.
Bên cạnh đó, nguyên tắc đảm bảo phát huy các nguồn lực còn đòi hỏi sự tham gia tích cực từ cộng đồng, của các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn bộ quá trình từ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến thực hiện di dời, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư. Tuy nhiên, để có thể xây dựng được sự tương hợp giữa “ý Đảng lòng dân”, phát huy được mọi nguồn lực trong cộng đồng, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần phải làm tốt khâu vận động, tuyên truyền, công khai, minh bạch và tăng cường dân chủ trong xuyên suốt hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước.
Ngoài yêu cầu đảm bảo phát huy các nguồn lực, công tác thu hồi đất cũng cần hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Bởi lẽ, diện tích đất đai là có hạn, nhu cầu sử dụng lại ngày một tăng cao. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng đất, con người đã có những tác động tiêu cực làm biến đổi tính chất tự nhiên, độ phì của đất, kết hợp với sự ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu toàn cầu đã làm cho một phần diện tích đất kém màu mỡ, hiệu quả trồng trọt giảm sút. Ngoài ra, quá trình đô thị hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng diễn ra ngày càng mạnh mẽ nhưng không theo quy hoạch, kế hoạch đã dẫn đến tình trạng đất đai bị manh mún, hoang hóa, gây lãng phí rất lớn đối với nguồn lực vô cùng có giá trị này. Chính vì vậy, trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 05 năm 2016 - 2020 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã xác định: Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, xanh, thân thiện với môi trường, nhất là các đô thị lớn. Nâng cao chất lượng và quản lý tốt quy hoạch đô thị, bảo đảm phát triển bền vững, có chính sách xây dựng khu đô thị mới ven các đô thị lớn, khai thác hiệu quả hạ tầng và tiết kiệm đất.
Để góp phần thực hiện mục tiêu trên mà Đảng ta đã đề ra, trong quá trình thu hồi đất, nguyên tắc phát triển bền vững cần được chú trọng quan tâm dưới một số góc độ sau đây: (i) Việc xác định, lựa chọn vị trí, diện tích đất để thu hồi cần được xem xét cẩn trọng, quan tâm đến lợi ích từ nhiều khía cạnh như kinh tế, xã hội, văn hóa… (ii) Trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính khả thi, có thể mang lại hiệu quả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các dự án đầu tư khai thác quỹ đất. (iii) Khi tiến hành các hoạt động đầu tư, thu hồi đất cần tính đến các yếu tố về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế những tác động tiêu cực đến cảnh quan thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên khác của hệ sinh thái.
Mỗi nguyên tắc đề ra trong quá trình thu hồi đất nói chung và thu hồi đất trong vùng phụ cận giữ một vị trí nhất định góp phần tạo ra hiệu quả và chất lượng dự án. Thiếu đi một nguyên tắc có thể ảnh hưởng đến sự vận hành của các nguyên tắc còn lại, cũng như tác động tiêu cực đến tiến độ và kết quả thực hiện dự án. Do vậy, chính quyền địa phương, dựa trên tình hình thực tế cũng như nguồn lực sẵn có, để có thể vận dụng các nguyên tắc thực thi trên một cách mềm dẻo, linh hoạt và phát huy được nội lực vốn có của mình./.
Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp