Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chính thức có hiệu lực thị hành kể từ ngày 01/01/2018, các quy định trong Bộ luật đã góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) vẫn còn có những hạn chế, bất cập nhất định trong quá trình áp dụng pháp luật.
1. Một số bất cập, hạn chế của các quy định tại phần chung Bộ luật Hình sự năm 2015
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự nhưng không giải thích rõ thế nào là trách nhiệm hình sự, thời điểm phát sinh và kết thúc trách nhiệm hình sự; thẩm quyền xác định trách nhiệm hình sự nên nhận thức về quy định này chưa thống nhất khi xử lý một số vụ án hình sự cụ thể. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng chưa có các khái niệm về “nhiều tội phạm”, “phạm nhiều tội”, “phạm tội nhiều lần” dẫn đến nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật; có trường hợp hai hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị xét xử về một tội, trong khi đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xét xử về hai tội.
Tại Điều 2 quy định: “1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này chưa phù hợp với thực tiễn vì thực tế có trường hợp người hoặc pháp nhân thương mại phạm một tội, có trường hợp phạm nhiều tội, một hay nhiều tội đều phải bị xử lý trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, tại khoản 1 Điều 8 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tuy nhiên, khác với cá nhân phạm tội, pháp nhân thương mại không phải là thực thể có lý trí và ý chí, vậy lỗi của pháp nhân là lỗi gì? Cố ý hay vô ý?
Ngoài ra, Điều 10 về “Cố ý phạm tội”, Điều 11 về “Vô ý phạm tội”, Điều 17 về “Đồng phạm”… đều quy định cho người phạm tội mà không quy định cho pháp nhân thương mại phạm tội. Trong khi đó, Điều 8 quy định khái niệm tội phạm lại nêu: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”; Điều 85 về “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại” có đề cập đến trường hợp pháp nhân thương mại “câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội” (điểm a khoản 1)… Do đó, cần nghiên cứu, bổ sung điều luật về lỗi của pháp nhân thương mại phạm tội và vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Hơn nữa, trong vụ án hình sự liên quan đến pháp nhân thương mại bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh, xác định rõ các tình tiết đặc trưng gắn liền với pháp nhân tại Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong đó có việc chứng minh một vấn đề quan trọng, đó là lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân.
Thứ ba, khoản 2 Điều 9 quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện: “Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này”. Điều này có nghĩa, tội phạm được phân loại thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (theo khoản 1 - căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt), tuy nhiên, chưa có quy định nào “quy đổi” tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà pháp nhân thương mại thực hiện tương ứng với mức cao nhất của khung hình phạt mà pháp nhân thương mại phải chịu trong Bộ luật Hình sự. Hơn nữa, hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội chỉ có hình phạt tiền là có thể quy đổi, nhưng chỉ tương ứng với tội phạm ít nghiêm trọng.
Thứ tư, khoản 2 Điều 18 và khoản 2 Điều 19 chưa có sự thống nhất về kỹ thuật lập pháp giữa quy định của hai điều luật này: “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” hay “các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này”; “tội đặc biệt nghiêm trọng khác” hay “tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Thứ năm, Điều 24 quy định gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; Điều 25 quy định rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Điều 26 quy định thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên còn mang tính nguyên tắc, chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Thứ sáu, Điều 29 quy định căn cứ miễn trách nhiệm hình sự chưa xác định cụ thể thế nào là “sự thay đổi chính sách, pháp luật”, “người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”, “người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo”, “lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” nên dẫn đến một số trường hợp áp dụng pháp luật chưa thống nhất. Bên cạnh đó, về mặt kỹ thuật lập pháp bộc lộ một số hạn chế, bất cập, thiếu đồng bộ trong tương quan với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.
Thứ bảy, Điều 51, Điều 52 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chưa cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn nhiều trường hợp áp dụng chưa chính xác, thống nhất, dễ dẫn đến áp dụng tùy tiện, ví dụ: Quy định ghép nhiều tình tiết giảm nhẹ trong cùng một điểm như người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau; quy định tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” dẫn đến có quan điểm cho rằng chỉ áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội, ngược lại, quan điểm khác cho rằng, có thể áp dụng đối với cả người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội.
Thứ tám, Điều 59 quy định: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Như vậy, để được miễn hình phạt, người phạm tội phải có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 và người đó phải phạm tội lần đầu, đồng thời là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Quy định nêu trên chưa thực sự phù hợp và chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự.
Bên cạnh đó, Điều 60 cũng chưa quy định thời hiệu thi hành án đối với bản án áp dụng hình phạt trục xuất.
Tại khoản 5 Điều 63 quy định: “Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này”. Quy định này chưa thực sự phù hợp, bởi nếu một người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới đặc biệt nghiêm trọng và bị kết án tù chung thân (tổng hợp hình phạt chung là tù chung thân) có thể được xét giảm lần đầu sau khi đã chấp hành được 15 năm tù. Trong khi đó, người khác đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới và bị kết án tù có thời hạn (tổng hợp hình phạt chung là 30 năm) chỉ có thể được xét giảm lần đầu sau khi đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung (tức là ít nhất 20 năm tù).
Tại Điều 67 và Điều 68, quy định của các điều luật chưa bảo đảm xử lý trường hợp thời hạn được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù bằng hoặc dài hơn thời hiệu thi hành bản án. Mặt khác, các điều luật này cũng chưa quy định việc hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù chung thân, tử hình; nếu không cho hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù chung thân, tử hình thì cũng phải quy định cụ thể trong luật.
Tại khoản 2 Điều 69 quy định: “Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích” và khoản 1 Điều 107 quy định: “1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này”. Như vậy, đây là những trường hợp không bị coi là có án tích, do đó, việc quy định nội dung này vào các điều luật về xóa án tích là chưa phù hợp về kỹ thuật lập pháp.
Thứ chín, khoản 1 Điều 75 đã đưa ra các điều kiện để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại gồm: (i) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; (ii) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; (iii) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; (iv) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do đây là 04 điều kiện độc lập và phải có đủ các điều kiện này mới truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, song, điều kiện thứ nhất và điều kiện thứ ba dường như chưa độc lập với nhau vì thực tế, nếu hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại thì không thể lại có trường hợp không có sự chỉ đạo, điều hành, chấp thuận của pháp nhân thương mại và ngược lại, nếu đã có sự chỉ đạo, điều hành hay chấp thuận của pháp nhân thương mại thì chính là đã nhân danh pháp nhân rồi. Hơn nữa, pháp nhân không có tri giác để hành động được mà mọi hoạt động phải thông qua người đại diện của nó.
Khoản 2 Điều 75 quy định: “Việc pháp nhân thương mại phạm tội chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”. Nhưng phạm vi cá nhân nào thuộc pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự lại không được đề cập cụ thể, điều này có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, thiếu thống nhất trong thực tiễn.
Để đảm bảo sự thận trọng cần thiết, Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với 33 tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường và các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đối với nhóm tội phạm khác thì trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân chưa được đặt ra như nhóm các tội phạm về chức vụ... Thực tiễn cho thấy, những tội phạm này hoàn toàn có thể được thực hiện bởi các pháp nhân. Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại nhưng lại không áp dụng đối với tội mua bán người, tội đưa hối lộ, tội nhận hối lộ thì sẽ dẫn đến sự xung đột giữa quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 với một số công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm mà Việt Nam là thành viên.
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự khi vi phạm các trường hợp luật định về rửa tiền và tài trợ khủng bố, đây là một điểm mới phù hợp với các công ước mà Việt Nam tham gia, phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay. Đây là 02 tội phạm đặc biệt nguy hiểm, tác động xấu tới nhiều phương diện của xã hội, tuy nhiên, pháp luật mới chỉ quy định trường hợp cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, nhưng lại chưa quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội là chưa phù hợp với thực tiễn. Pháp nhân thương mại là doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác được thành lập nhằm mục đích chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân, tức là pháp nhân thương mại là tổ chức, hoạt động dựa trên các hành vi của cá nhân nhân danh “mình”, đại diện cho “mình”, vì vậy, người nhân danh pháp nhân thương mại, đại diện cho pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự cùng tội danh đối với pháp nhân thương mại, các hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại đều do cá nhân nhân danh mình thực hiện, tức là khi pháp nhân thương mại phạm tội cũng sẽ trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Pháp nhân thương mại có tổ chức, có tiềm lực về kinh tế, về nhân lực… lớn mạnh hơn cá nhân nhiều lần nên khi thực hiện hành vi phạm tội, kể cả khi thực hiện hành vi trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì pháp nhân thương mại có khả năng gây thiệt hại lớn hơn so với hành vi chuẩn bị phạm tội của cá nhân.
Điều 78 quy định về hình phạt “Đình chỉ hoạt động có thời hạn” đối với pháp nhân thương mại phạm tội như sau: “Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế”. Quy định này chưa thực sự chính xác vì nếu gây thiệt hại đến “tính mạng” (đoạn trước) mà hậu quả gây ra lại “có khả năng khắc phục trên thực tế” (đoạn sau) là chưa đúng vì gây thiệt hại đến tính mạng rõ ràng không thể khắc phục được.
Điều 82 quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội chỉ đề cập đến thẩm quyền áp dụng của Tòa án. Tuy nhiên, quá trình điều tra tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện thường kéo dài, trong giai đoạn điều tra nếu không kịp thời áp dụng các biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại như: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu hay buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra, mà phải chờ đến khi Tòa án xét xử và quyết định thì không đảm bảo được mục đích áp dụng của các biện pháp này.
2. Một số kiến nghị, đề xuất hoàn thiện
Với một số bất cập, hạn chế trong quy định tại phần chung của Bộ luật Hình sự năm 2015 như đã phân tích ở trên, theo tác giả, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định tại phần này theo hướng sau đây:
- Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
1. Chỉ người nào phạm tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Điều 9. Phân loại tội phạm
…
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mà không phụ thuộc vào loại hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại.
- Điều 10. Cố ý phạm tội
Điều 10a. Lỗi của pháp nhân
- Điều 18. Che giấu tội phạm
…
2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.
- Điều 19. Không tố giác tội phạm
...
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá;
c) Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
d) Người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
e) Người phạm tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 110 của Bộ luật này.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận;
d) Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
đ) Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thuộc trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 364 hoặc khoản 6 Điều 365 của Bộ luật này;
e) Người phạm tội đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 390 của Bộ luật này.
3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
- Điều 59. Miễn hình phạt
Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu phạm tội lần đầu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
- Điều 60. Thời hiệu thi hành bản án
1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau:
a) 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;
- Điều 63. Giảm mức hình phạt đã tuyên
…
5. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc 20 năm trong trường hợp hình phạt chung là tù chung thân.
- Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
c) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
…
- Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 150, 151,188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300, 324, 354 và 364 của Bộ luật này.
- Điều 78. Đình chỉ hoạt động có thời hạn
1. Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
…
- Điều 82. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
a) Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật này;
b) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
c) Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm phạm tội của mình gây ra.
3. Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm:
…
Đại học Cảnh sát nhân dân