1. Khái quát bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế và hoạt động thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam
1.1. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với sáng chế nhưng dựa vào những quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019, 2022[1] (sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005), ta có thể khái quát rằng: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế là hệ thống pháp lý quy định rõ những quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu sáng chế và các chủ thể có liên quan; quy định hành vi xâm phạm quyền và những biện pháp xử lý với hành vi vi phạm đó.
Để quản lý và giám sát cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu và các chủ thể khác có liên quan, Nhà nước cấp bằng độc quyền sáng chế cho cá nhân, tổ chức. Như vậy, bằng độc quyền sáng chế là văn bản pháp lý đánh dấu việc Nhà nước sẽ đứng ra sử dụng các công cụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ thể được cấp bằng. Văn bản này xác định và bảo vệ quyền độc quyền của chủ sở hữu đối với sáng chế của họ trong một thời gian nhất định.
1.2. Hoạt động thương mại hóa sáng chế
Trước tiên, “thương mại là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên quy mô lớn. Bất kì giao dịch nào sử dụng tiền để mua sắm các hàng hóa và dịch vụ đều là một phần của hoạt động thương mại”[2]. Pháp luật Việt Nam định nghĩa, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Theo đó, khái niệm “khai thác thương mại” hoặc “thương mại hóa” nhìn chung có thể được hiểu là việc tài sản hợp pháp được trao đổi, mua bán hoặc áp dụng các hình thức thương mại khác nhằm giúp chủ sở hữu hoặc người có quyền lợi hợp pháp đối với tài sản thu được lợi nhuận từ chính tài sản mà mình có quyền.
Như vậy, dù Việt Nam không có quy định về khái niệm “thương mại hóa sáng chế”, bằng phương pháp “bóc tách” khái niệm chúng ta có thể hiểu hoạt động “khai thác thương mại đối với sáng chế” là các hành vi trao đổi, mua bán hoặc các hình thức thương mại khác nhằm thu được lợi nhuận hợp pháp từ sáng chế.
Về chủ thể tham gia quá trình thương mại hóa sáng chế, theo kinh nghiệm quốc tế, các chủ thể chính trong quá trình thương mại hóa sáng chế bao gồm người bán, người mua, tổ chức trung gian và cơ quan quản lý nhà nước[3].
Về điều kiện khai thác, sáng chế được xếp vào nhóm tài sản về quyền SHTT - một loại tài sản vô hình. Tuy nhiên, cũng tương tự như tài sản hữu hình, để có thể thương mại hóa (lưu thông) được, tài sản trí tuệ phải bảo đảm đáp ứng đầy đủ các điều kiện: Phải được bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam; đang còn hiệu lực bảo hộ trên lãnh thổ Việt Nam và không phải là các đối tượng đang bị tranh chấp[4].
Về các khâu của quá trình khai thác thương mại sáng chế, theo khuyến nghị từ các chuyên gia, quá trình này không phải là một quá trình tuyến tính, tuần tự hoàn toàn mà các thành phần của nó có thể chồng chéo lên nhau, tương tác linh hoạt lẫn nhau ở một mức độ nhất định. Đây là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự linh hoạt phối hợp các khâu, các chủ đề thay vì áp dụng một “khung” cố định. Tuy nhiên, từ góc độ nhà phát minh hay chủ sở hữu sáng chế, một số bước cần đặc biệt lưu ý trong tiến trình thương mại hóa sản phẩm SHTT bao gồm: (i) Hình thành ý tưởng, tiến hành sáng tạo và tiếp thị sáng chế; (ii) Nộp đơn xin cấp phép nhằm bảo đảm các quyền lợi pháp lý của chủ sở hữu đối với sáng chế; (iii) Tìm kiếm khách hàng, liên hệ với các bên trung gian nhằm thúc đẩy hoạt động mua bán bằng sáng chế, cho thuê các quyền SHTT đối với sáng chế hoặc bất kỳ một giao dịch nào đem lại lợi nhuận từ tài sản này.
Xét về các hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế, có thể kể đến một số hình thức như: (i) Chủ sở hữu tự mình khai thác thương mại đối với sáng chế; (ii) Chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế; (iii) Chủ sở hữu thế chấp, góp vốn để kinh doanh bằng quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế; (iv) Chủ sở hữu thu được tiền đền bù từ việc bị Nhà nước hoặc người thay mặt cho Nhà nước thực hiện li-xăng cưỡng bức[5].
2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về hoạt động thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa đề cập đến khái niệm thương mại hóa sáng chế. Hiện nay, ta mới chỉ tìm thấy định nghĩa về “hoạt động thương mại” trong Luật Thương mại năm 2005 và “thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học” trong Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017. Thực trạng này dẫn đến việc cũng không có một văn bản cụ thể nào hướng dẫn về các khía cạnh của hoạt động thương mại hóa sáng chế như quy trình, phương thức khai thác, các tổ chức trung gian hỗ trợ được phép hoạt động,... Kết quả là hoạt động khai thác sáng chế của các chủ thể đôi khi còn diễn ra tự phát, nhỏ lẻ, thiếu chiến lược, thiếu thông tin; chủ thể khai thác thường gặp nhiều khó khăn trong việc viện dẫn các căn cứ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, quy định về các đối tượng được cấp bằng sáng chế vẫn còn tương đối hẹp, dẫn đến làm giảm tính cạnh tranh và khả năng khai thác lợi nhuận của các loại hình tài sản có kết tinh hàm lượng chất xám khác. Căn cứ theo định nghĩa được quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, “sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Theo định nghĩa này thì việc nghiên cứu tìm ra các chức năng, cách sử dụng mới của một chất, thiết bị đã có sẵn (tức là sáng chế dạng sử dụng) sẽ không được cấp văn bằng bảo hộ. Cần lưu ý rằng, các quốc gia có hệ thống pháp luật SHTT tiến bộ và khá tương tự với nước ta như ở châu Âu hay Nhật Bản vẫn chấp nhận phổ biến việc cấp văn bằng bảo hộ cho sáng chế dạng sử dụng. Thậm chí, ngay tại Việt Nam, trước khi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được ban hành, loại sáng chế này cũng vẫn có tiền lệ được xem xét cấp văn bằng bảo hộ[6]. Hệ quả là, việc quy định đối tượng được bảo hộ như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sẽ phần nào tạo ra thiệt thòi cho các chủ thể nghiên cứu bởi quá trình tìm ra cách sử dụng mới của một sản phẩm đã có vẫn có thể là quá trình hao tổn chất xám, chi phí đầu tư ngang với việc tạo ra một quy trình hay sản phẩm mới, dẫn tới họ thiếu động lực để tiến hành tìm ra và khai thác nhiều giá trị thương mại hơn từ các phương pháp hay sản phẩm đã có. Ngoài ra, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế tại Điều 59 đã thu hẹp hơn đối tượng được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế so với khoản 3 Điều 27 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Thứ ba, chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho các hoạt động định giá, góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế. Đối với hoạt động định giá, hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản chính thức nào điều chỉnh việc định giá tài sản vô hình nói chung và sáng chế nói riêng. Pháp luật chưa có quy định về việc tổ chức chuyên môn nào có quyền định giá sáng chế, trình tự hoạt động định giá ra sao... Bởi vì, sáng chế là loại tài sản vô hình, có tính biến động cao nên hoạt động này đòi hỏi tính chuyên môn sâu và được tổ chức một cách hệ thống, bài bản. Việc bỏ ngỏ các quy định về định giá sáng chế như hiện tại sẽ khiến cho hoạt động định giá diễn ra một cách tự phát, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích thương mại của các bên khi tham gia giao dịch có đối tượng là sáng chế. Bên cạnh đó, đối với hoạt động góp vốn bằng sáng chế, một phần cũng do hoạt động định giá sáng chế chưa được triển khai một cách hiệu quả. Ngoài ra, bất cập trong việc góp vốn bằng tài sản là quyền SHTT đối với sáng chế còn đến từ việc khoản 2 Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020 bắt buộc cá nhân, tổ chức góp vốn phải là chủ sở hữu hợp pháp đối với sáng chế. Cách quy định này đã triệt tiêu khả năng góp vốn của chủ sở hữu sáng chế được cấp văn bằng tại nước ngoài (do quyền SHTT mang tính lãnh thổ và văn bằng bảo hộ chỉ có hiệu lực trong phạm vi quốc gia cấp bằng). Đồng thời, chủ sở hữu sáng chế đang trong giai đoạn thẩm định đơn cũng không có khả năng sử dụng quyền này để góp vốn thành lập doanh nghiệp do chưa có văn bằng bảo hộ công nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ thể đối với sáng chế[7]. Cuối cùng, thực tế pháp luật đang cho phép góp vốn bằng các hợp đồng li-xăng không độc quyền, điều này có thể giảm sức cạnh tranh, giá trị của quyền SHTT góp vốn; hạn chế sự kiểm soát thực tế của công ty nhận quyền SHTT làm tài sản góp vốn cũng như dễ nảy sinh tranh chấp với các chủ sở hữu hợp đồng li-xăng khác.
Thứ tư, các quy định về nội dung hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp vẫn chưa linh hoạt, hiệu quả. Qua đánh giá Điều 140 và Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về nội dung hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, nhóm tác giả nhận thấy một số điểm chưa hợp lý. Trước hết, các quy định này đang dùng từ “phải có” cho các điều khoản được liệt kê trong hợp đồng, tức là hàm ý các điều khoản mang tính bắt buộc trong khi bản chất hợp đồng sử dụng và hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là loại hợp đồng dân sự, mang tính chất tự thỏa thuận giữa các bên. Kế tiếp, khoản 2 Điều 144 cũng đang chỉ ra các “hạn chế bất hợp lý quyền của các bên được chuyển quyền” theo phương pháp liệt kê, không đưa ra các tiêu chí xác định cụ thể, có thể dẫn đến sự thiếu sót các điều khoản là hạn chế bất hợp lý khác. Ngoài ra, do tính đa dạng của các tình huống thực tế nên việc quy định này đặt ra cách xử lý là “mặc nhiên bị vô hiệu” cho mọi điều khoản này cũng có thể gây ra sự khiên cưỡng, bất hợp lý, gây tổn hại lợi ích của các bên trong giao dịch trong một số trường hợp cụ thể.
Thứ năm, chưa có cơ chế đủ mạnh nhằm thúc đẩy khai thác tiềm năng thương mại từ các “sáng chế không chuyên nghiệp” - sáng chế đến từ đội ngũ nhà nghiên cứu không thuộc các đơn vị hàn lâm, có thể không có chuyên môn hay bằng cấp cao, chẳng hạn như nông dân hay thợ thủ công,... Mặc dù còn những hạn chế nhất định trong công tác nghiên cứu, song nhiều sáng chế từ nhóm đối tượng này đã cho thấy tính ứng dụng cao và tiềm năng tạo ra lợi ích thương mại to lớn. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ các cơ chế hỗ trợ vay vốn, cơ sở vật chất nghiên cứu, tư vấn thủ tục đăng ký bảo hộ hay chiến lược tiến hành thương mại hóa thành quả nghiên cứu cho nhóm đối tượng này. Một số chính sách hỗ trợ được ban hành trước đây vẫn còn thiếu tính đồng bộ và chưa được thực thi một cách linh hoạt, chặt chẽ.
Thứ sáu, các hướng dẫn thực thi quyền SHTT chưa đủ cụ thể, chi tiết và chưa vận dụng tối ưu, đa dạng các hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp vào hoạt động xử lý tranh chấp về quyền SHTT. Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, cũng chưa đề cập đến các trường hợp đối tượng bị xâm phạm là quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế. Trong công tác xử lý các tranh chấp về quyền SHTT, biện pháp xử lý phổ biến vẫn là biện pháp hành chính hạn chế tự do ý chí của các bên trong khi biện pháp dân sự được đánh giá là có nhiều ưu điểm hơn vẫn chưa được sử dụng rộng rãi.
Thứ bảy, năng lực chuyên môn của đội ngũ thực thi pháp luật phần nào vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong khi số lượng vi phạm và tranh chấp về SHTT ngày càng tăng và có xu hướng phức tạp hơn, thực tiễn tại Tòa án, Viện kiểm sát, quản lý thị trường, hải quan… cho thấy, đội ngũ nhân lực hiện nay chưa đáp ứng được tiêu chí trên và cần được đào tạo chuyên sâu về SHTT. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến công tác thực thi quyền trở nên khó khăn, thiếu hiệu quả, cản trở hoạt động khai thác thương mại từ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói riêng và các tài sản SHTT nói chung.
3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo đảm việc khai thác thương mại đối với sáng chế
Một là, khái niệm “thương mại hóa tài sản SHTT” cần được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật liên quan như Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Thương mại. Việc bổ sung khái niệm trên sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để các chủ thể thương mại thực hiện giao dịch sáng chế một cách hợp pháp, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và từ đó xúc tiến hoạt động thương mại hóa sáng chế.
Hai là, khái niệm sáng chế cũng cần được xem xét bổ sung và chỉnh sửa theo hướng mở rộng phạm vi cấp văn bằng bảo hộ nhằm tăng tính cạnh tranh và phù hợp hơn với các điều khoản trong các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam tham gia.
Ba là, hoạt động góp vốn bằng quyền SHTT đối với sáng chế và định giá sáng chế cũng cần có hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể hơn nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro và từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh tiến hành khai thác thương mại từ sáng chế. Với hoạt động góp vốn bằng quyền SHTT đối với sáng chế, cần bổ sung các quy định làm rõ khoản 2 Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020 về thế nào là chủ sở hữu hợp pháp hoặc người có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản SHTT. Với riêng đối tượng là sáng chế, cần cho phép các chủ thể được góp vốn bằng sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ tại nước ngoài; bổ sung quy định chủ sở hữu quyền sử dụng sáng chế được phép sử dụng quyền đó để góp vốn, tuy nhiên, chỉ trong trường hợp đó là quyền sử dụng độc quyền, nhằm giảm tối đa rủi ro phát sinh tranh chấp và bảo toàn giá trị của tài sản góp vốn; quy định rõ về việc góp vốn bằng sáng chế đang trong quá trình thẩm định đơn. Với hoạt động định giá, cần ban hành một văn bản thống nhất tổng hợp, bổ sung và sắp xếp logic các quy định về hoạt động thẩm định giá cả đối với tài sản SHTT nói chung, sáng chế nói riêng và bổ sung hành lang pháp lý cho sự tồn tại, hoạt động của một tổ chức định giá chuyên biệt.
Bốn là, tại Điều 140 và Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, nhóm tác giả đề xuất thay từ “phải có” thành “có thể bao gồm”; thêm khoản 5 vào Điều 140 và điểm h khoản 1 Điều 144 với nội dung là “các thỏa thuận khác” theo đúng tinh thần tự do trong thỏa thuận của một giao dịch dân sự. Điều này cũng giảm bớt một phần gánh nặng trong khâu giao dịch, ký kết hợp đồng liên quan đến chuyển giao quyền sở hữu sáng chế đối với các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 144 như sau: “Các điều khoản trong hợp đồng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này mặc nhiên bị vô hiệu nếu các bên không có thỏa thuận khác và việc điều khoản vô hiệu không gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên”.
Năm là, cần có cơ chế khen thưởng, tôn vinh kịp thời, các phúc lợi lớn và thiết thực hơn cho các chủ sở hữu có sáng chế mang lại hiệu quả thương mại cao, ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn đời sống. Đặc biệt, cần khuyến khích và vinh danh các đối tượng dù không thuộc đội ngũ chuyên môn nghiên cứu nhưng có những giải pháp kỹ thuật được đăng ký bảo hộ và đem lại giá trị cao, góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế của cơ sở, địa phương.
Sáu là, cần nâng cao hiệu quả của các biện pháp thực thi quyền SHTT đối với sáng chế và hoàn thiện các quy định hướng dẫn thực thi quyền SHTT với sáng chế.
Với biện pháp hình sự, cần đưa hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với sáng chế thành đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điều này sẽ tạo thêm cơ chế để các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình, từ đó thúc đẩy hoạt động thương mại hóa sáng chế.
Với biện pháp dân sự, cần tinh giản các thủ tục giải quyết tranh chấp, rút ngắn thời hạn chuẩn bị xét xử các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế để biện pháp này thực sự trở nên hiệu quả. Bên cạnh đó, việc xác định mức bồi thường thiệt hại cần phải căn cứ vào hành vi, hậu quả, mức độ thiệt hại để đưa ra mức bồi thường thiệt hại hợp lý thay vì quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Bởi vì, trong trường hợp thiệt hại thực tế lớn hơn 500 triệu đồng thì mức tiền bồi thường như vậy hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của bên bị xâm phạm. Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu và sáng tạo ra một sáng chế đòi hỏi chủ sở hữu phải bỏ ra công sức và chi phí vô cùng lớn, việc quy định mức bồi thường như trên là chưa thỏa đáng.
Với biện pháp hành chính, trước mắt, khi biện pháp dân sự chưa đạt hiệu quả cao, cần xem xét tăng mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT nói chung và với các hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói riêng để tạo tính răn đe.
Vũ Thanh Hà, Lê Huyền Mai & Nguyễn Huyền Vy
Sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội
[1]. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào năm 2009, 2019, 2022. Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH Luật Sở hữu trí tuệ do Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội ký xác thực ngày 08/7/2022.
[2]. https://economictimes.indiatimes.com/definition/commerce, truy cập ngày 25/11/2023.
[3]. Phùng Minh Hải, Đỗ Phương Nhung, Hà Diệu Linh, “Thương mại hóa sáng chế - Đối tượng tham gia và động cơ thúc đẩy quá trình thương mại hoá”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, ngày 25/12/2022.
[4]. Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Hỗ trợ, Tư vấn, “Thương mại hóa tài sản trí tuệ - động lực phát triển bền vững cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam”, https://ipvietnam.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/ content/thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-ong-luc-phat-trien-ben-vung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-viet-nam, truy cập ngày 26/01/2024.
[5]. Phan Quốc Nguyên, “Pháp luật về các hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế tại Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận án Tiến sĩ luật học, 2016.
[6]. Dương Tử Giang, “Bàn về yêu cầu bảo hộ dạng sử dụng đối với sáng chế ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 9 năm 2017, tr. 52, 54, truy cập ngày 30/12/2023.
[7]. Khoản 1 Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: “Chủ sở hữu sáng chế, thiết kế bố trí là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng”.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 399), tháng 2/2024)